TCCS - Đại hội đảng bộ các cấp đã diễn ra thành công tốt đẹp. Toàn Đảng, toàn dân đang hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Sự thành công ấy là kết quả tất yếu từ sự chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng của Đảng ta, gắn với việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI; quy hoạch cán bộ các cấp và quy hoạch cán bộ cấp chiến lược; tổ chức lớp dự nguồn cao cấp và luân chuyển cán bộ; thực hiện tốt Chỉ thị số 36-CT/TW và Quy chế bầu cử trong Đảng.


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng sắp diễn ra có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống chính trị, xã hội nước ta. Để chuẩn bị cho sự kiện trọng đại này, Đảng đã tập trung chỉ đạo, chuẩn bị từ rất sớm về mọi mặt và đến thời điểm này, đại hội đảng bộ cấp cơ sở, cấp trên trực tiếp cơ sở, cấp trực thuộc Trung ương đã thành công tốt đẹp. Kết quả thành công của tất cả 67 đại hội đảng bộ trực thuộc Trung ương, mở đầu là Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình, khai mạc vào ngày 15-9-2015, và kết thúc là Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội, bế mạc vào ngày 3-11-2015, hoàn thành sớm hơn gần 2 tháng so với nhiệm kỳ trước, là tiền đề quan trọng để tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.

Chúng ta cảm nhận được bầu không khí phấn khởi thật sự của các địa phương, cơ quan sau khi đại hội đảng bộ các cấp kết thúc. Các đảng bộ trực thuộc Trung ương đều đã bầu thành công ban chấp hành khóa mới, cơ bản đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, đúng về tỷ lệ độ tuổi quy định và chất lượng cấp ủy viên, nhất là các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, được nâng lên cả về phẩm chất, đạo đức, học vấn, trình độ lý luận, năng lực công tác và kinh nghiệm thực tiễn. Các đại hội đều thể hiện tinh thần đoàn kết, dân chủ, kỷ cương và đổi mới. Có thể khẳng định thành công của đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XII của Đảng là kết quả tất yếu thể hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo chủ động, thống nhất và có hiệu quả của Đảng ta về đổi mới công tác xây dựng Đảng trong suốt nhiệm kỳ Đại hội XI, được bắt đầu từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” - bước đột phá về công tác xây dựng Đảng

Như chúng ta đều biết, mọi chế độ xã hội cũng như các giai cấp, đảng phái cầm quyền, vì lợi ích của mình, đều phải ra sức chăm lo xây dựng đội ngũ lãnh đạo. Khi giai cấp vô sản bước lên vũ đài chính trị, V.I. Lê-nin đã từng khẳng định: Trong lịch sử, chưa hề có giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo được ra trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào. Thực tiễn của cách mạng thế giới trong mấy thập niên qua cũng đã chỉ ra rằng: đảng cầm quyền nếu không thường xuyên đổi mới, không thường xuyên chỉnh đốn để xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh, không thường xuyên phát triển đội ngũ những đại biểu tiền phong của mình thì vai trò cầm quyền của đảng rốt cuộc cũng sẽ bị lu mờ và tự đánh mất vai trò lãnh đạo.

Trong lịch sử văn hiến hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, cha ông ta đã sớm sáng lập Quốc Tử Giám, một trung tâm đào tạo những người hiền tài - được coi là “nguyên khí quốc gia”, để gánh vác đại sự của đất nước. Kế thừa tri thức nhân loại và tinh hoa văn hóa dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động của mình đã luôn chú trọng đến công tác cán bộ, từ đánh giá, lựa chọn, đào tạo, thử thách, rèn luyện, sử dụng và đãi ngộ. Người cho rằng, cán bộ là “cái dây chuyền” của bộ máy của Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân; cán bộ là “cái gốc” của mọi công việc, công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém.

Quán triệt sâu sắc lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trên cơ sở đúc kết các bài học kinh nghiệm quốc tế, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt” và Đảng phải “thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo”. Từ Đại hội VI của Đảng đến nay, không có nhiệm kỳ nào Trung ương Đảng không có nghị quyết về xây dựng Đảng, về đổi mới, chỉnh đốn Đảng, về công tác cán bộ. Nhưng có một điều hết sức quan ngại là “chúng ta đã tiến hành thường xuyên, liên tục trong nhiều nhiệm kỳ, với nhiều biện pháp, nhiều cuộc vận động” mà kết quả vẫn còn khá khiêm tốn. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng, lãng phí, hư hỏng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa được đẩy lùi mà thậm chí có chiều hướng nghiêm trọng hơn, làm xói mòn lòng tin đối với Đảng.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng ban hành đúng lúc, kịp thời, thể hiện quyết tâm chính trị và là giải pháp cấp bách, cần làm ngay để khắc phục tình trạng suy thoái nói trên, mong muốn tạo ra được các kết quả cụ thể, rõ rệt để củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 tập trung vào 3 vấn đề cấp bách nhất: Một là, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Về thực chất, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 tập trung trước hết nhằm khắc phục một vấn đề vô cùng khó khăn lâu nay là công tác đánh giá cán bộ. Bằng việc triển khai 3 nhiệm vụ cấp bách và 4 nhóm giải pháp, việc đánh giá cán bộ theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 được yêu cầu nhấn mạnh hơn, quyết liệt hơn các tiêu chuẩn: lập trường tư tưởng chính trị, năng lực thực tiễn thể hiện bằng hiệu quả công việc; uy tín trong Đảng và trong nhân dân; tư duy đổi mới và sáng tạo; khả năng nắm bắt, xử lý hiệu quả các vấn đề mới phát sinh; đoàn kết, quy tụ đội ngũ cán bộ; phong cách làm việc khoa học, dân chủ, sâu sát, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; minh bạch, công tâm, khách quan trong công tác cán bộ; khả năng phát hiện và sử dụng người có đức, có tài; không tham ô, tham nhũng; có thái độ kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tham ô, tham nhũng, tiêu cực và phản bác các luận điệu xuyên tạc, phản động, trái với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Những tiêu chuẩn này là cụ thể, rõ ràng và mang tính định lượng hơn, là tấm gương soi cho cán bộ, đảng viên tự sửa mình trong công việc. Đây là cơ sở quan trọng và là điều kiện tiên quyết để đánh giá, lựa chọn, quy hoạch, đào tạo, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ cũng như cho việc chuẩn bị nhân sự của đại hội đảng bộ các cấp sau này. Bởi vậy, trong Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 30-5-2014, của Bộ Chính trị, về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, các tiêu chuẩn này đã được lưu ý rất rõ ràng trong hướng dẫn công tác nhân sự cho đại hội đảng bộ các cấp. Đồng thời, để tạo sự khách quan trong đánh giá, lựa chọn cán bộ, lần đầu tiên, Đảng ta quy định việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh lãnh đạo trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, đoàn thể và, theo đó, đối với những người hai năm liền tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ sẽ xem xét, cho thôi giữ chức vụ, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác. Rõ ràng, Đảng “bắt mạch” đúng bản chất của vấn đề, xác định điểm nghẽn sâu xa của mọi sự trì trệ, yếu kém trong Đảng hiện nay nằm ở công tác cán bộ, nhất là công tác đánh giá cán bộ. Chỉnh đốn Đảng bắt đầu từ công tác cán bộ là sự lựa chọn đột phá đúng và trúng của Đảng ta ở nhiệm kỳ Đại hội XI.

Ngay sau khi ban hành, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 về xây dựng Đảng đã được tuyệt đại đa số cán bộ đảng viên và nhân dân đón nhận với tình cảm hồ hởi, vui mừng, đồng tình, nhất trí cao, coi đây là “cẩm nang” để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, là cơ sở để lập kế hoạch kiểm điểm và tổ chức thực hiện kiểm điểm. Các tổ chức cơ sở đảng, từ Trung ương đến địa phương, đã tiến hành kiểm điểm nghiêm túc, khẳng định đây là công việc thường xuyên, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm; xác định kiểm điểm không phải là đi tìm đối tượng để xử lý kỷ luật, là “bới lông tìm vết”, mà để răn đe, phòng ngừa, ngăn chặn, để cán bộ tự giác tu dưỡng, tự điều chỉnh hành vi của mình, loại bỏ cái xấu, “cảnh giác trước mọi cám dỗ về danh lợi, vật chất, tiền tài, tránh rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, tệ hại”. Nghị quyết đã thể hiện sự trung thực chính trị đáng trân trọng của Đảng ta, thể hiện tinh thần “tự chỉ trích” để hoàn thiện và phát triển; dũng cảm, thẳng thắn tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình từ trên xuống dưới, mạnh dạn chỉ ra những yếu kém, hạn chế trong nội bộ Đảng, đồng thời đưa ra giải pháp khắc phục mà không e ngại đến vai trò cầm quyền của Đảng. Chính việc chỉ ra để khắc phục những yếu kém, khuyết điểm là cách thức để Đảng vượt lên, nâng cao vai trò cầm quyền và sức chiến đấu của mình. Đảng cần nhất lúc này là niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Lòng tin của nhân dân vào Đảng thường được đặt vào những công việc rất cụ thể, ở chính hình ảnh của các cán bộ, đảng viên; ở phẩm chất đạo đức, tác phong, năng lực và hiệu quả công tác của họ. Do vậy, để dân tin Đảng, Đảng phải thẳng thắn nhận trách nhiệm trước nhân dân về sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt. Điều đó cũng có nghĩa là, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 là dấu mốc về cách làm mới, chuyển biến mới trong công tác xây dựng Đảng.

Trên thực tế, nhiều công việc đã được Đảng triển khai một cách đồng bộ để đưa Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 đi vào cuộc sống. Đó là công tác quy hoạch cán bộ cấp chiến lược; công tác đào tạo dự nguồn cao cấp và cán bộ chủ chốt ở các cơ quan Trung ương và địa phương; công tác luân chuyển cán bộ được tiến hành đồng bộ ở cả hai chiều; công tác nhân sự và việc sửa đổi Quy chế bầu cử trong Đảng cho phù hợp với tình hình... Dường như các tổ chức cơ sở đảng đã không còn bị động trong công tác kiểm điểm, đánh giá giữa kỳ và cuối nhiệm kỳ; không khí nặng nề, khép kín, cục bộ, thiếu tin tưởng trong sinh hoạt đảng các cấp ở nhiều nơi đã từng bước được thay thế bằng không khí công khai, dân chủ, cởi mở, tin tưởng và đầy tinh thần xây dựng. Không khí ấy được thể hiện bằng các hành động cụ thể, đầy trách nhiệm trong công việc chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp. Thành công của đại hội đảng các cấp được bắt nguồn sâu xa từ các kết quả thực hiện đổi mới công tác xây dựng Đảng mà trước hết là thực hiện 3 vấn đề cấp bách và 4 giải pháp được nêu trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4.

Quy hoạch cán bộ các cấp và quy hoạch cán bộ cấp chiến lược - tầm nhìn và chất lượng mới trong công tác cán bộ

Xuất phát từ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ cấp bách thứ hai trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là ở cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 24-KL/TW, ngày 5-6-2012, về đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Công tác quy hoạch cán bộ ở nhiệm kỳ Đại hội XI, về thực chất, là sự tiếp tục của Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 30-11-2004, của Bộ Chính trị khóa IX nhằm khắc phục các hạn chế, yếu kém của công tác quy hoạch cán bộ trong các nhiệm kỳ trước: Thứ nhất, việc tạo nguồn bồi dưỡng, đào tạo, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ có nơi, có lúc chưa được thực hiện theo quy hoạch; quy hoạch chưa thường xuyên liên tục, chưa xuất phát từ đánh giá đúng cán bộ; còn mang tính hình thức, chắp vá, không đồng bộ, thiếu chủ động trong bố trí cán bộ và thiếu tính khả thi; thứ hai, chất lượng quy hoạch cán bộ chưa cao, không đồng đều, thiếu tầm nhìn xa, chưa bảo đảm cơ cấu 3 độ tuổi, không bảo đảm tỷ lệ cán bộ nữ, tỷ lệ cán bộ trẻ, tỷ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số; thứ ba, quy hoạch cán bộ thời gian qua chưa có tính tổng thể và sự liên thông giữa cấp dưới và cấp trên, giữa địa phương và Trung ương, giữa các ngành, các lĩnh vực công tác, đặc biệt là chưa hề có quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước.

Ở nước ta, nói đến chủ trương quy hoạch cán bộ thì hầu như ít người phản đối nhưng lại luôn coi đây là việc khó. Nhiều ý kiến cho rằng, thực hiện quy hoạch, công khai danh tính cán bộ dự nguồn phát triển là một vấn đề nhạy cảm vì đưa cán bộ vào diện quy hoạch rất có thể sẽ trở thành đối tượng bị soi mói, công kích, bị gièm pha và có thể gây mất đoàn kết nội bộ và mất cán bộ. Tuy nhiên, thực tế triển khai ở các địa phương thời gian qua cho thấy, ở đâu quy hoạch đúng người, bố trí công việc hợp lý, cán bộ được quan tâm, tạo điều kiện phát triển thì ở đó đều thành công. Nguyên nhân của các trường hợp thất bại không nằm ở bản thân chủ trương quy hoạch mà ở cách làm quy hoạch không đúng và sự thiếu trách nhiệm của những người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Hơn nữa, để lựa chọn được đúng người và bảo vệ được quy hoạch, cần bảo đảm tính minh bạch, dân chủ, công khai, khoa học trong đánh giá cán bộ, lấy quy hoạch lãnh đạo chủ chốt ở cấp dưới làm cơ sở cho quy hoạch cán bộ ở cấp trên, có cơ chế và điều kiện tốt, thật sự công bằng để cán bộ trong diện quy hoạch được thể hiện tài năng, phấn đấu, cống hiến và trưởng thành. Bởi vậy, ngay sau khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, công tác kiểm điểm và đánh giá cán bộ là khâu quan trọng được xác định trong lựa chọn nhân sự quy hoạch. Công tác quy hoạch và công tác nhân sự tuy thống nhất nhưng không đồng nhất. Khi xem xét một nhân sự cụ thể đòi hỏi còn phải cân nhắc, tính toán nhiều yếu tố khác. Nhưng phương án nhân sự dứt khoát phải được xây dựng dựa trên quy hoạch. Mặt khác, rút kinh nghiệm trong thực tế, chúng ta đã thực hiện quy hoạch theo chức danh cụ thể. Một chức danh lãnh đạo chủ chốt ở các cấp, các ngành, các địa phương có thể quy hoạch từ 1 đến 3 người và một người có thể quy hoạch ở nhiều chức danh. Cơ hội rộng mở cho mọi người và nguồn cho sự lựa chọn, đào tạo và bồi dưỡng cũng rất rộng. Nhờ có sự rõ ràng về quan điểm chỉ đạo, chặt chẽ về nguyên tắc, “động” và “mở” về phương châm, công tác quy hoạch cán bộ lần này đã rất chú trọng đến nhiệm vụ rà soát, bổ sung quy hoạch, đưa ra khỏi quy hoạch những người không còn đủ tiêu chuẩn, bổ sung vào quy hoạch các nhân tố mới đủ tiêu chuẩn.

Một điểm mới mà thực chất là nhiệm vụ cũ của nhiệm kỳ trước nêu ra nhưng chưa triển khai, đó là quy hoạch cán bộ cấp chiến lược ở Trung ương. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng nhằm khắc phục nguy cơ hẫng hụt cán bộ cấp chiến lược và đồng thời đáp ứng yêu cầu bảo đảm tính nhất quán, liên thông và đồng bộ về công tác cán bộ nói chung, công tác quy hoạch nói riêng trong toàn bộ hệ thống chính trị. Việc quy hoạch cán bộ cấp chiến lược đã được Đảng triển khai một cách đồng bộ, thực chất, dân chủ, công khai, minh bạch: lấy thực tế kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 làm cơ sở để hoàn chỉnh tiêu chuẩn về đánh giá và lựa chọn cán bộ đưa vào quy hoạch; lấy quy hoạch cán bộ cấp chiến lược làm cơ sở cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách; đồng thời lấy quy hoạch cấp chiến lược để thúc đẩy quy hoạch cán bộ chủ chốt ở cấp dưới. Đặc biệt, quy hoạch cán bộ cấp chiến lược phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và là cơ sở cho việc chuẩn bị công tác nhân sự diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý cũng như công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII và các nhiệm kỳ tiếp theo. Đây sẽ là công việc phải thường xuyên triển khai trong công tác cán bộ của Đảng.

Sau 3 năm triển khai thực hiện, điều hết sức rõ ràng là công tác quy hoạch cán bộ nói chung, quy hoạch cán bộ cấp chiến lược nói riêng đã đi vào đời sống của Đảng như một lẽ tự nhiên. Cán bộ được quy hoạch phấn khởi, luôn nỗ lực trau dồi, rèn luyện cho xứng đáng với vị trí được quy hoạch. Cán bộ chưa được quy hoạch lấy các tiêu chuẩn cán bộ diện quy hoạch để phấn đấu. Hiện tượng so kè, đố kỵ, níu kéo, thiếu tinh thần xây dựng trong công tác quy hoạch đã không còn phổ biến. Công tác quy hoạch trở thành nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị. Công tác bổ nhiệm được tuân thủ nghiêm túc theo quy hoạch, hạn chế được tình trạng tùy tiện, vị thân, không đúng người, vì người bổ nhiệm chứ chưa vì công việc để chọn người phù hợp. Tại đại hội đảng bộ các cấp, việc giới thiệu nhân sự cấp ủy hầu như đều từ nguồn quy hoạch đã phê duyệt và điều rất đáng phấn khởi là các đồng chí trúng cử về cơ bản đều là các đồng chí trong diện quy hoạch của cấp ủy các cấp. Ngoài các đồng chí tái cử còn trong tiêu chuẩn quy định, tuyệt đại đa số các đồng chí được bầu vào ban chấp hành đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều trong diện quy hoạch cán bộ chủ chốt. Nhiều tài năng trẻ đã được phát hiện, bồi dưỡng và trưởng thành nhanh chóng, giữ các cương vị quan trọng trong lãnh đạo chủ chốt của các địa phương. Hầu hết các đồng chí bí thư tỉnh ủy khóa mới đều đã được quy hoạch vào Ban Chấp hành Trung ương khóa XII. Rõ ràng, sự đổi mới công tác quy hoạch cán bộ và cán bộ cấp chiến lược của nhiệm kỳ Đại hội XI là bước chuẩn bị quan trọng, là một bảo đảm cho sự thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.

Mở lớp dự nguồn cao cấp và luân chuyển cán bộ - định hướng đào tạo thực chất, đồng bộ và hiệu qủa

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến vai trò con người và luôn yêu cầu công tác cán bộ, đào tạo cán bộ phải đi trước một bước. Người nói: Cán bộ là “cái gốc” của mọi công việc và huấn luyện cán bộ là “công việc gốc” của Đảng. Thực hiện lời dạy của Người, Đảng ta luôn quan tâm và chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Để là “cái gốc” của mọi công việc, người cán bộ phải có tư duy biện chứng, tư duy hệ thống, có tầm nhìn xa, chiến lược, tinh thần thượng tôn pháp luật, năng lực quy tụ và tổ chức thực hiện hiệu quả nhiệm vụ chính trị được giao. Điều này là hoàn toàn đúng và càng quan trọng hơn khi Đảng ta đang đứng trước nhiệm vụ trọng đại: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế trong bối cảnh mới; khi trong thời đại ngày nay, khoa học - công nghệ đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, kinh tế tri thức ngày càng chiếm ưu thế trong phát triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia; khi lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã chủ yếu dựa trên công nghệ, tri thức, đổi mới và sáng tạo.

Nhận thức rõ tầm quan trọng và yêu cầu mới đối với công tác đào tạo cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược; và cùng với việc triển khai công tác quy hoạch, Đảng ta đã rất chú trọng mở các lớp dự nguồn cao cấp, cả cán bộ quy hoạch cấp chiến lược ở Trung ương và cán bộ chủ chốt ở địa phương. Tương tự như công tác quy hoạch, các lớp dự nguồn cao cấp cũng được tổ chức đào tạo theo chức danh cho các đồng chí thuộc diện quy hoạch cấp chiến lược. Đối tượng tham dự các lớp này là các đồng chí ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, các đồng chí quy hoạch lãnh đạo chủ chốt của các cơ quan Trung ương và địa phương. Chương trình và nội dung đào tạo, do vậy, có điểm khác với các chương trình lý luận cao cấp hiện nay là không chỉ làm sâu sắc hơn các vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới mà còn cập nhật có hệ thống, làm rõ các vấn đề lớn và mới trong quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng; nhấn mạnh việc đánh giá, tổng kết thực tiễn đất nước ta sau 30 năm đổi mới; định rõ thế và lực mới, cách tiếp cận phát triển mới của Việt Nam trong một bối cảnh thế giới, khu vực đang thay đổi nhanh, mạnh với nhiều cơ hội và thách thức mới; đưa vào chương trình nhiều kiến thức về thế giới đương đại thuộc lĩnh vực tư duy chiến lược, như xây dựng tầm nhìn quốc tế và khu vực, cục diện thế giới hiện nay, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, “bàn cờ chính trị” thế giới... Để đáp ứng yêu cầu này, giảng viên được lựa chọn là các đồng chí lãnh đạo cấp cao, các nhà quản lý, hoạch định chính sách có kinh nghiệm, không chỉ hiểu sâu về lý luận mà còn có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động và chỉ đạo thực tiễn; là các chuyên gia giỏi có tư duy đổi mới, có năng lực cập nhật tri thức tổ chức và quản trị hiện đại, có các phương pháp tiếp cận công tác tiên tiến. Đặc biệt, lần đầu tiên, chúng ta mời các chuyên gia quốc tế, các đại sứ, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp có uy tín cùng tham gia thuyết trình chuyên đề và thảo luận, nhất là việc nghiên cứu, phân tích và xử lý tình huống về thành công và thất bại của các mô hình phát triển, ở cả cấp vĩ mô và vi mô. Bởi vậy, tri thức được chuyển tải ở các lớp dự nguồn cao cấp là phong phú, sâu sắc, cập nhật, liên thông giữa lý luận và thực tiễn, khắc phục tính giáo điều, kinh viện. Cũng lần đầu tiên, trong khoảng thời gian 4 tháng, các học viên dự nguồn cao cấp còn được đi thực tế địa phương, thực hiện “ba cùng” với các địa phương để nâng cao kỹ năng nắm bắt, hiểu biết và xử lý các vấn đề thực tiễn cụ thể. Phương châm “học đi đôi với hành”, “lý luận gắn với thực tiễn” đã rất được chú trọng. Không chỉ đi thực tế trong nước, các học viên còn được tạo điều kiện đi khảo sát 2 tuần ở nước ngoài, được tiếp cận mô hình đào tạo hiện đại ở các quốc gia phát triển, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Xin-ga-po,... Đây là cách bổ sung kiến thức hai chiều khá hiệu quả: người cần bổ sung hiểu biết thực tiễn thì được nâng cao qua đi thực tế và ngược lại, người cần bổ sung kiến thức lý luận thì được làm giàu thêm qua cập nhật tri thức. Học viên các lớp dự nguồn cao cấp cũng không làm luận văn, luận án tốt nghiệp như các lớp cao học và nghiên cứu sinh, nặng khía cạnh học thuật mà là được yêu cầu làm đề án tốt nghiệp mang tính triển khai, xử lý thực tiễn về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng Đảng,... tùy theo lĩnh vực chức trách nhiệm vụ học viên đang đảm nhiệm. Nghĩa là đề án tốt nghiệp phải trở thành phương án lãnh đạo, chỉ đạo của học viên tại cơ quan, đơn vị, địa phương mình trên tư cách là người lãnh đạo chủ chốt. Tính tổ chức kỷ luật của lớp học cũng rất được đề cao: tổ chức học tập và sinh hoạt nội trú; tăng cường tự học, tự nghiên cứu; nghiêm về kỷ cương, kỷ luật; nêu cao vai trò và trách nhiệm cá nhân... Đây là những phẩm chất cần có, cần được chuẩn bị cho hoạt động thực tiễn sau này. Các địa phương, tùy theo điều kiện của mình, cũng đã chủ động tổ chức các lớp dự nguồn cấp chủ chốt địa phương. Trong khóa XI, chúng ta đã tổ chức được 6 lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp với 511 học viên, trong đó có 231 đồng chí là cán bộ cấp tỉnh, 280 đồng chí là cán bộ khối ban, bộ, ngành Trung ương. Kết quả của các lớp học là khả quan. Cán bộ phấn khởi, tin tưởng và học tập nghiêm túc. Nhiều học viên đạt kết quả xuất sắc, được quy hoạch và bổ nhiệm ở các vị trí công tác cao hơn. Đặc biệt, 100% số học viên các lớp dự nguồn cao cấp công tác tại các địa phương đều đã được bầu vào ban thường vụ, phó bí thư tỉnh ủy và 45 trong tổng số 61 đồng chí đắc cử bí thư tỉnh, thành phố lần này đều là học viên của các khóa dự nguồn cao cấp nhiệm kỳ Đại hội XI. Điều đó cũng có nghĩa là Đảng ta đã chủ động hơn về công tác nhân sự, nguy cơ hẫng hụt về cán bộ cấp chiến lược đã được khắc phục đáng kể.

Luân chuyển cán bộ, xét về bản chất, cũng là công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, bố trí và sắp xếp cán bộ có đủ thời gian để cọ xát với thực tế, nhất là đối với các đồng chí quy hoạch cán bộ cấp chiến lược từ các cơ quan Trung ương. Cần phải thấy rằng, công tác luân chuyển cán bộ đang được triển khai không phải là vấn đề mới. Hơn 10 năm qua, các cấp ủy, tổ chức đảng đã tích cực triển khai công tác luân chuyển, góp phần đào tạo, thử thách cán bộ qua thực tiễn và tăng cường cán bộ cho những nơi khó khăn. Hầu hết cán bộ qua luân chuyển đều có bước trưởng thành, tích lũy được nhiều kinh nghiệm thực tiễn, có quan điểm nhìn nhận và phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, sâu sát hơn. Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều trường hợp luân chuyển, đào tạo cán bộ chưa hoàn toàn dựa trên cơ sở đánh giá cán bộ và quy hoạch cán bộ; tình trạng khép kín, cục bộ còn nặng nề; hiện tượng nơi thừa, nơi thiếu cán bộ còn khá phổ biến. Rút kinh nghiệm các khóa trước, công tác luân chuyển nhiệm kỳ này được chuẩn bị khá sớm cùng với công tác quy hoạch, được xây dựng và lập kế hoạch cụ thể trên cơ sở đánh giá cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4; xác định nhu cầu đào tạo cán bộ ở cả nơi đến và nơi đi; làm rõ mục đích luân chuyển và chức danh cần luân chuyển, không nhất thiết phải luân chuyển đến những nơi mà địa phương có nguồn cán bộ phù hợp và không khiên cưỡng luân chuyển trong những trường hợp mà các cơ quan hữu quan còn có ý kiến khác nhau. Quy trình luân chuyển được tổ chức hết sức chặt chẽ bắt đầu từ xin chủ trương của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về tiếp tục luân chuyển sau khi tổng kết kinh nghiệm luân chuyển của các khóa trước; xây dựng tiêu chí để xác định địa bàn, chức danh cán bộ (phó bí thư, phó chủ tịch hay đồng thời cả phó bí thư và phó chủ tịch), nguồn cán bộ và thời gian luân chuyển; sau khi được Bộ Chính trị, Ban Bí thư đồng ý mới thông báo để các ban, bộ, ngành có nhu cầu luân chuyển lựa chọn các đồng chí vụ trưởng và tương đương, trong quy hoạch chức danh chủ chốt để báo cáo Trung ương. Những cán bộ này được gửi xin ý kiến thẩm định của Ban Cán sự Đảng Chính phủ, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Nội chính Trung ương, Đảng ủy khối và địa phương sẽ luân chuyển cán bộ tới tùy theo mỗi chức danh. Ban Bí thư sẽ chỉ phê duyệt khi có sự đồng thuận cao của các cơ quan và địa phương được tham khảo ý kiến. Điều đó cũng khẳng định rằng, công tác luân chuyển cán bộ đã được tiến hành một cách bài bản, đồng bộ, và có phần chủ động hơn, nhất là về luân chuyển cán bộ cấp chiến lược.

Điểm khác biệt đáng lưu ý trong công tác luân chuyển cán bộ nhiệm kỳ này là luân chuyển phải dựa trên quy hoạch và gắn chặt chẽ với đào tạo dự nguồn, nhất là đối với các đồng chí quy hoạch cấp chiến lược. Trên thực tế, chúng ta đã thực hiện được một đợt luân chuyển 54 đồng chí quy hoạch cấp chiến lược từ các cơ quan Trung ương về địa phương. Hầu hết các đồng chí này đã phát huy được năng lực, sở trường công tác, đa số trúng cử cấp ủy, tham gia ban thường vụ và lãnh đạo chủ chốt của các địa phương. Đặc biệt, có 6 đồng chí luân chuyển thuộc diện Trung ương quản lý đắc cử bí thư tỉnh ủy, chức danh cao hơn chức danh trước khi luân chuyển. Nhiều đồng chí đã được địa phương giới thiệu tham gia ứng cử Ban Chấp hành Trung ương khóa XII với số phiếu khá cao. Đây cũng là một kết quả rất đáng ghi nhận, thể hiện tính thực chất và có hiệu quả của công tác luân chuyển cán bộ trong điều kiện mới.

Chỉ thị số 36-CT/TW và Quy chế bầu cử trong Đảng - nhân tố trực tiếp góp phần quyết định sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp

Để chuẩn bị cho đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 30-5-2014. Về phương diện công tác nhân sự, Chỉ thị số 36-CT/TW đã khắc phục được nhiều vướng mắc của Chỉ thị số 37-CT/TW khóa X, đã làm rõ số lượng, cơ cấu, độ tuổi cấp ủy cho cấp quận, huyện; cấp tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương; đưa ra các yêu cầu về tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số; xác định các đồng chí cấp ủy đương nhiệm còn 30 tháng được tiếp tục tái cử; chú ý bố trí sắp xếp và thực hiện chính sách cho các đồng chí không còn trong độ tuổi tái cử. Chỉ thị số 36-CT/TW còn thể hiện sự quán triệt sâu sắc tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 về xác định tiêu chuẩn cấp ủy viên, trong đó nhấn mạnh các tiêu chuẩn theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, nhất là yêu cầu cấp ủy viên về thái độ nghiêm túc khắc phục, sửa chữa kịp thời những tồn tại, yếu kém và khuyết điểm sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4. Chỉ thị số 36-CT/TW cũng đã xác định rõ: không cơ cấu vào cấp ủy những đồng chí không gương mẫu thực hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước hoặc vi phạm những điều đảng viên, cán bộ, công chức không được làm. Nhìn chung, Chỉ thị số 36-CT/TW vừa thể hiện tính nghiêm minh của kỷ cương trong Đảng, vừa thể hiện tính đổi mới trong cách làm và tính nhân văn trong chính sách cán bộ của Đảng. Theo đó, trong quá trình triển khai, các cấp ủy đều thống nhất thừa nhận tính rõ ràng, công minh, dễ làm và dễ thực hiện của Chỉ thị này. Một số trường hợp các đồng chí cấp ủy viên đương nhiệm quá tuổi quy định tham gia tái cử cấp ủy mới chỉ 5 - 7 ngày đã không quá tâm tư, bức xúc, đồng thời xác định không tham gia tái cử và sẵn sàng nhận sự bố trí, sắp xếp công việc khác.

Rõ ràng, Chỉ thị số 36-CT/TW đã thể hiện chủ trương nhất quán của Đảng ta trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác nhân sự và bầu cử tại đại hội đảng bộ các cấp. Trên cơ sở này, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo chặt chẽ, sâu sát, thống nhất, khách quan và công bằng khi cho ý kiến về nhân sự cấp ủy của các tỉnh, thành phố và các đảng bộ trực thuộc Trung ương. Việc thực hiện nghiêm ở cả cấp Trung ương trong chỉ đạo và cấp địa phương trong thực hiện đã thể hiện sự thống nhất từ trên xuống dưới, giữ vững nguyên tắc, nhất quán trong thực hiện. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp đem lại sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp.

Công tác đánh giá cán bộ, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, chuẩn bị nhân sự có thể rất tốt nhưng vẫn không thành công, nếu công tác bầu cử không được tổ chức tốt. Hiểu rõ tình hình thực tế và rút ra các bài học của công tác bầu cử trong Đảng nhiệm kỳ trước, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng tại Quyết định số 244-QĐ/TW, ngày 9-6-2014, và trên cơ sở đó, các ban tham mưu của Đảng ban hành hướng dẫn phương hướng công tác nhân sự và hướng dẫn bầu cử cấp ủy các cấp, bảo đảm tính nhất quán, chặt chẽ, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Quy chế bầu cử mới đã chú trọng hơn nguyên tắc bảo đảm dân chủ và trách nhiệm của các cấp ủy, của từng đại biểu trong thực hiện quy trình bầu cử, tập trung nhiều hơn đến trách nhiệm chuẩn bị của cấp ủy và vai trò của từng cấp ủy viên trong việc chấp hành các quyết định của cấp ủy. Chẳng hạn, quyền ứng cử và đề cử trong đại hội được tôn trọng nhưng phải bảo đảm nguyên tắc một ủy viên cấp ủy sẽ không tự ứng cử và nhận quyền đề cử nếu cấp ủy viên này không được giới thiệu trong danh sách đề cử của cấp ủy. Bầu cử phải có số dư so với số lượng cần bầu nhưng cấp ủy chỉ được chuẩn bị số dư không quá 15% và tại đại hội có thể giới thiệu thêm nhưng không vượt quá 30%. Điều này đã khắc phục được tình trạng thiếu tập trung và tản mạn trong giới thiệu đề cử. Đây là điểm mới của công tác bầu cử lần này, và nhờ đó, đại hội đảng bộ các cấp đã diễn ra thuận lợi, thông suốt. Hầu hết các đại hội tôn trọng và nhất trí cao với sự chuẩn bị nhân sự cấp ủy mới của cấp ủy các cấp, số dư giới thiệu thêm không nhiều và kết quả là các đồng chí trúng cử đều là các đồng chí đã có quá trình chuẩn bị lâu dài do cấp ủy các cấp giới thiệu.

Như vậy, từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 đến đại hội đảng bộ các cấp, một lô-gíc tất yếu của quy trình công tác cán bộ, từ chuẩn bị nhân sự đến tổ chức đại hội để bầu cử cấp ủy đã được chúng ta chủ động tiến hành sớm, kỹ lưỡng, bài bản, khoa học, đồng bộ, tổng thể, liên thông giữa các khâu trong công tác cán bộ: 1- Tiến hành đánh giá, lựa chọn cán bộ để chuẩn bị nguồn quy hoạch, dự nguồn đào tạo và nguồn cấp ủy, trong đó có lấy phiếu tín nhiệm; 2- Rà soát, bổ sung quy hoạch cấp ủy và lãnh đạo chủ chốt một cách thường xuyên, liên tục; phát hiện nhân tố mới đủ tiêu chuẩn bổ sung quy hoạch và đưa ra khỏi quy hoạch những người không còn đủ tiêu chuẩn; 3- Thực hiện luân chuyển 54 đồng chí thuộc diện Trung ương quản lý để đào tạo, bồi dưỡng thông qua thực tế địa phương và điều động 28 đồng chí đang công tác tại các địa phương về Trung ương để có điều kiện kiện toàn các chức danh chủ chốt gắn với nguồn nhân sự tham gia cấp ủy địa phương khóa mới; 4- Mở 6 lớp dự nguồn cao cấp với tổng số 511 học viên - nguồn chuẩn bị chủ yếu cho cấp ủy địa phương và Ban Chấp hành Trung ương khóa XII; 5- Ban hành Chỉ thị số 36-CT/TW và Quy chế bầu cử trong Đảng rõ ràng là phương thức hiện thực hóa công tác chuẩn bị nhân sự. Nhờ vậy, trên cơ sở danh sách nhân sự cấp ủy do ban chấp hành các cấp ủy chuẩn bị, trong đó chủ yếu là các nhân sự có quy hoạch, đại hội các cấp đã thực hiện rất nghiêm túc Quy chế bầu cử trong Đảng, đã giới thiệu hầu như không nhiều số dư so với chuẩn bị của cấp ủy. Kết quả là nhân sự do các cấp ủy chuẩn bị đều trúng cử và trúng với số phiếu rất cao trong khi các trường hợp giới thiệu ngoài danh sách do cấp ủy chuẩn bị hầu hết không trúng cử. Điều đó cũng có thể nói rằng, Chỉ thị số 36-CT/TW và Quy chế bầu cử trong Đảng là nhân tố trực tiếp, góp phần quyết định sự thành công tốt đẹp của đại hội đảng bộ các cấp./.