Đi tìm một giải pháp mới cho vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên
TCCS - Từ sau khi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Triều Tiên tiến hành vụ thử hạt nhân lần thứ hai vào ngày 25-5-2009 rồi liên tục tiến hành các vụ bắn thử tên lửa và sau đó tuyên bố rút khỏi quá trình đàm phán 6 bên, mọi nỗ lực của cộng đồng quốc tế trong suốt thời gian qua đều nhằm hướng tới việc kêu gọi CHDCND Triều Tiên trở lại bàn đàm phán. Tuy nhiên, việc Mỹ và CHDCND Triều Tiên tiếp tục duy trì lập trường cứng rắn cho thấy khả năng giảm căng thẳng tại đây vẫn chỉ dừng lại ở sự kỳ vọng. Vụ nổ tàu Cheonan tháng 3-2010 càng cho thấy sự bế tắc của các giải pháp đang tiến hành nhằm tháo gỡ vấn đề Triều Tiên.
Bản chất của vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên
Ngay sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên đã bắt đầu thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế với việc nước này tuyên bố rút khỏi Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) tháng 3-1993. Hệ quả là sự ra đời của Hiệp định khung, được ký giữa Mỹ và Triều Tiên vào tháng 10-1994. Tuy nhiên, tháng 8-1998, quan hệ Mỹ - CHDCND Triều Tiên căng thẳng trở lại sau vụ Triều Tiên bắn thử tên lửa. Theo tuyên bố của chính quyền CHDCND Triều Tiên, đây là việc làm cần thiết trước việc Mỹ và Hàn Quốc không thực hiện đúng những gì đã cam kết trong Hiệp định khung 1994. Ngày 17-11-2002, Hãng Thông tấn Trung ương Triều Tiên (KCNA) tuyên bố trước toàn thế giới: Triều Tiên đã có vũ khí hạt nhân. Điều này đồng nghĩa với việc Hiệp định khung ký giữa Mỹ và Triều Tiên năm 1994 đã không còn giá trị và mở ra một giai đoạn khủng hoảng mới về vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Dựa vào đó, chính quyền Bu-sơ đã liệt Triều Tiên vào trục ma quỷ, gồm các quốc gia “bất trị” và là đối tượng hàng đầu của chiến lược “đánh đòn phủ đầu”(1). Trong bối cảnh đối thoại Mỹ - Triều Tiên cũng như giữa Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) với Triều Tiên rơi vào tình trạng bế tắc, tiến trình đàm phán 6 bên (bao gồm Mỹ, Hàn Quốc, CHDCND Triều Tiên, Nhật Bản, Nga và Trung Quốc) đã ra đời. Vòng đàm phán đầu tiên bắt đầu từ ngày 27 - 29-8-2003.
Từ đó đến nay, 6 vòng đàm phán đã được tổ chức. Vòng đàm phán thứ 4 (tháng 9-2005) được coi là có kết quả nhất với việc Mỹ và CHDCND Triều Tiên đạt được những thỏa thuận có tính đột phá: Triều Tiên sẽ từ bỏ kế hoạch hạt nhân hiện thời của họ để hướng tới phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên; Mỹ khẳng định tôn trọng chủ quyền của Triều Tiên. Tuy nhiên, kết quả thu được đã không như các bên mong đợi; các vòng đàm phán thường bị gián đoạn.
Tháng 10-2006, CHDCND Triều Tiên tiếp tục ra tuyên bố, lần đầu tiên thử nghiệm thành công vũ khí hạt nhân. Sự kiện này đã vượt quá khả năng của đàm phán 6 bên, buộc Hội đồng Bảo an (HĐBA) Liên hợp quốc phải ra Nghị quyết số 1718 trừng phạt CHDCND Triều Tiên(2). Đáp trả lại, Triều Tiên đã rút khỏi vòng đàm phán 6 bên và đẩy nhanh tiến độ chương trình hạt nhân của họ. Đỉnh điểm của sự căng thẳng là việc Triều Tiên tiến hành vụ thử hạt nhân lần 2 ngày 25-5-2009. HĐBA một lần nữa lại thông qua Nghị quyết số 1874, thắt chặt hơn mức độ cấm vận đối với Triều Tiên trong cả vấn đề xuất nhập khẩu vũ khí lẫn tài chính. Tuy nhiên, cứ vào thời điểm các bên có thể đi đến một thỏa thuận nào đó, căng thẳng lại bùng phát. Tình hình trên bán đảo Triều Tiên thật sự khó lường.
Nhìn chung, diễn tiến của vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên là hết sức phức tạp với sự tham gia của khá nhiều bên. Quá trình giải quyết cũng phản ánh tính phức tạp đó qua nhiều hình thức, từ đàm phán song phương đến đa phương. Xuyên suốt từ đầu năm 1990 đến nay, quá trình này có một số đặc điểm sau:
Một là, tình hình căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên liên quan đến một trong những vấn đề có tính toàn cầu: Phổ biến vũ khí hạt nhân. Mâu thuẫn rất khó giải quyết nhanh và triệt để trong vấn đề này thể hiện ở cả hai khía cạnh: (1) giữa bên đang sở hữu và bên đang muốn sở hữu thứ vũ khí khủng khiếp nhất hiện nay; (2) giữa hai khái niệm vũ khí hạt nhân và hạt nhân dân sự. Những chuẩn mực quốc tế được định ra từ thời kỳ Chiến tranh lạnh trong vấn đề hạt nhân (chẳng hạn như Hiệp ước NPT) không phải quốc gia nào, trong đó tiêu biểu như CHDCND Triều Tiên hay I-ran, cũng chấp thuận vô điều kiện, đặc biệt trong bối cảnh mà các cường quốc hạt nhân luôn cho mình quyền phán xét, can thiệp vào bất cứ nước nào mà họ cho rằng đang mưu toan có vũ khí hạt nhân. Vai trò khiêm tốn của các nước như CHDCND Triều Tiên, đã cản trở mọi cơ hội giải thích những mục đích vì dân sinh với cộng đồng quốc tế.
Hai là, căng thẳng trong quan hệ Mỹ - CHDCND Triều Tiên không chỉ đơn thuần liên quan đến vấn đề hạt nhân của Triều Tiên mà còn chịu ảnh hưởng của những thiên kiến có tính lịch sử. Từ sau chiến tranh Triều Tiên 1950 - 1953, hai bên chưa lúc nào thay đổi quan niệm coi nhau như kẻ thù. Chính vì thế, chỉ cần một thông tin không đầy đủ về hành động của nhau cũng dễ dẫn đến sự nghi ngại, thậm chí thù địch. Trên thực tế, Mỹ đã không thực hiện đầy đủ những cam kết cung cấp năng lượng cho Triều Tiên theo Hiệp định khung 1994 với lý lẽ cho rằng, Triều Tiên không chịu từ bỏ tham vọng hạt nhân. Đấy cũng chính là cơ sở để Triều Tiên cho rằng họ cần phải tiếp tục theo đuổi chương trình hạt nhân để có thể chống lại chính sách thù địch của Mỹ. Hàn Quốc cũng đóng vai trò không kém phần quan trọng trong việc làm trầm trọng thêm tình hình khi luôn duy trì trạng thái cảnh giác cao độ đối với Triều Tiên. Như vậy, vấn đề hạt nhân của Triều Tiên luôn có mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề thống nhất hai miền.
Ba là, tính quốc tế hóa của vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên là rất cao bởi ngoài tính chất toàn cầu của bản thân vấn đề, còn do liên quan đến lợi ích của rất nhiều nước. Có thể nói, trong vấn đề này quy tụ hầu như mọi mâu thuẫn tiêu biểu trong quan hệ quốc tế thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh. Một số cường quốc hạt nhân can thiệp chặt chẽ tình hình bán đảo Triều Tiên không chỉ bởi đơn thuần nhằm ngăn chặn khả năng phổ biến vũ khí hạt nhân mà còn bởi đây là địa bàn tranh giành ảnh hưởng, nơi mà họ phải khẳng định vị thế của mình sau khi cấu trúc hai cực tan rã. Các nước tầm trung và nhỏ, như các nước ASEAN, cũng không thể đứng ngoài vấn đề, không phải chỉ đơn thuần Triều Tiên cũng là thành viên của Diễn đàn an ninh khu vực (ARF) mà bởi tính dễ bị tổn thương trong kỷ nguyên toàn cầu hóa.
Như vậy, thực chất vấn đề hạt nhân của Triều Tiên là sự hòa quyện của ba vấn đề cơ bản: 1- Vấn đề thống nhất hai miền Triều Tiên; 2- Vấn đề bảo đảm lợi ích của ít nhất bốn nước lớn Mỹ, Nga, Nhật Bản và Trung Quốc; 3- Vấn đề hạt nhân vừa có tính toàn cầu nếu xét dưới góc độ vũ khí hạt nhân, vừa có tính chủ quyền quốc gia nếu xét dưới góc độ dân sinh (hạt nhân dân sự). Điều này có nghĩa khi giải quyết vấn đề hạt nhân của Triều Tiên phải giải quyết đồng bộ cả ba vấn đề trên thì mới hy vọng đạt được kết quả.
Sự bế tắc của các giải pháp hiện hành
Từ khi xuất hiện vấn đề hạt nhân của Triều Tiên, các nước liên quan trực tiếp và cả cộng đồng quốc tế nói chung đã có nhiều nỗ lực nhằm tháo gỡ nó. Đã có khá nhiều hình thức được tiến hành, từ đàm phán song phương (giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên) tới đàm phán đa phương (vòng đàm phán 6 bên) hoặc sử dụng cơ chế HĐBA. Tuy nhiên, những biện pháp này đang tiến gần tới giới hạn cuối cùng là sự bế tắc.
Đàm phán giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên sẽ rất khó xảy ra trong thời gian tới, cho dù chính quyền B.Ô-ba-ma luôn kêu gọi đối thoại với mọi đối tượng, nhưng với Triều Tiên sẽ là ngoại lệ. Sau thất bại của Hiệp định khung 1994 và trước chính sách kiên định của Triều Tiên, Mỹ càng muốn quốc tế hóa rộng rãi vấn đề hạt nhân của Triều Tiên. Trên thực tế, đàm phán giữa Mỹ và Triều Tiên có tiếp tục thì cũng khó có kết quả khả quan, bởi sự cứng nhắc của đôi bên cũng như đối thoại Mỹ - Triều Tiên cũng chỉ đụng chạm đến duy nhất một khía cạnh của vấn đề là vũ khí hạt nhân mà thôi.
Đối thoại hai miền Nam - Bắc Triều Tiên cũng đã diễn ra, đỉnh cao là cuộc gặp thượng đỉnh liên Triều vào tháng 6-2000. Dưới tác động của chính sách ánh Dương do cựu Tổng thống Kim Tê Chung khởi xướng, tình trạng đối đầu giữa hai miền sau gần 50 năm đã bắt đầu hạ nhiệt. Nguời ta hy vọng sự ấm lên của quan hệ hai miền Triều Tiên sẽ giúp giải tỏa vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Tuy vậy, hướng đi này cũng mau chóng khiến người ta thất vọng. Dường như nỗi ám ảnh “ai thống nhất ai” luôn là chướng ngại khó có thể vượt qua đối với cả hai miền trên con đường tiến tới bình thường hóa. Trạng thái lạc quan sau Hội nghị thượng đỉnh liên Triều lần hai (tháng 10-2007) chưa kịp cho những kết quả cụ thể thì vụ nổ tàu Cheonan (tháng 3-2010) lại đẩy quan hệ hai miền trở lại vạch xuất phát - vĩ tuyến 38. Hơn thế, không phải tất cả các bên đều ủng hộ hòa giải hai miền Triều Tiên (chính sách Ánh Dương bị chính quyền Bu-sơ tìm mọi cách cản trở(3)).
Một giải pháp có tính tương đối tổng thể hơn cả chính là tiến trình đàm phán 6 bên. Bởi quá trình đối thoại này đụng chạm tới cả ba khía cạnh của vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Chính vì thế, khi Trung Quốc đưa ra đề nghị đăng cai cho tiến trình đối thoại, lập tức nhận được sự ủng hộ của tất cả các bên liên quan. Đàm phán 6 bên được coi là lối thoát duy nhất vào thời điểm khủng hoảng năm 2003. Sáu vòng đàm phán đã trôi qua, kết quả thu được chỉ dừng lại ở cam kết của các bên là tránh dùng vũ lực. Chính sách cứng rắn của Mỹ và Triều Tiên luôn là nguyên nhân cơ bản làm gián đoạn, khiến các vòng đàm phán kéo dài mà không đạt được kết quả cụ thể nào. Các điều kiện tiên quyết để giải quyết vấn đề hạt nhân tại các vòng đàm phán mà Mỹ và CHDCND Triều Tiên đưa ra hoàn toàn có tính triệt tiêu lẫn nhau: Mỹ yêu cầu Triều Tiên phải từ bỏ hoàn toàn chương trình hạt nhân trước khi ký hiệp định hòa bình; Triều Tiên thì lại yêu cầu phải ký được hiệp định hòa bình rồi mới bàn tới chương trình hạt nhân. Sự luẩn quẩn trong các điều kiện của đôi bên đã đẩy vòng đàm phán vào ngõ cụt. Thêm nữa, động thái của các bên còn lại (hoặc kêu gọi Mỹ và Triều Tiên kiềm chế hoặc ủng hộ các biện pháp trừng phạt của HĐBA) cũng không mang lại kết quả bởi các bên chưa đưa ra được bất cứ một đề xuất nào có tính toàn diện trong vấn đề này. Cuối cùng, giả sử Triều Tiên quay trở lại thì tiến trình đàm phán có tiếp tục lặp lại điệp khúc của các vòng đàm phán trước hay không? Tuyên bố của đặc phái viên Hoa Kỳ, ông Xtê-phen Bôx-uốt (Stephen Bosworth) (sau chuyến viếng thăm Bình Nhưỡng ngày 16-12-2009 để chuyển bức thư của Tổng thống B.Ô-ba-ma tới Chủ tịch Kim Châng In): “Chúng tôi (Mỹ và Triều Tiên) đã đạt đến sự hiểu biết chung nhất định trong vấn đề về sự cần thiết và vai trò của cuộc thương lượng 6 bên, cũng như tầm quan trọng của việc thực thi tuyên bố chung của “bộ 6” ngày 19-9-2005”(4) đã khiến các bên đều rất hy vọng vào cam kết của Triều Tiên sẽ “chấm dứt chiến tranh trong năm nay”(5). Tình trạng căng thẳng đến mức báo động trên bán đảo Triều Tiên trong thời gian qua đã khiến các bên đàm phán quên đi rằng, đấy lại chính là hệ quả từ sau Tuyên bố chung ngày 19-9-2005. Nếu không có một bước đột phá nào thì đàm phán có diễn ra trong thời gian tới kết quả chắc cũng không khác là bao so với các vòng đàm phán trước.
Tóm lại, sở dĩ những biện pháp nêu trên đều khó có khả năng thu được kết quả như các bên mong muốn: Một bán đảo Triều Tiên phi hạt nhân và hòa bình, vì những nguyên nhân chính sau đây:
Thứ nhất, tất cả các biện pháp nêu trên đều chỉ mang tính phiến diện, mới chỉ nhằm giải quyết một mặt nào đó của vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên mà thôi.
Thứ hai, chính sách quá cứng rắn của Mỹ và CHDCND Triều Tiên. Trong trường hợp chưa có được một giải pháp có tính tổng thể, đáp ứng được lợi ích của các bên liên quan, tất nhiên ở một mức độ tương đối, thì phải có ít nhất một bên chấp nhận nhượng bộ. Điều này đã không xảy ra cho đến thời điểm hiện tại.
Thứ ba, sự nghi kỵ mang tính lịch sử giữa các bên, trước hết là giữa CHDCND Triều Tiên với Mỹ và Hàn Quốc quá sâu sắc. Chiến tranh lạnh kết thúc cùng với việc hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ càng làm cho Triều Tiên quan ngại hơn trước chính sách “diễn biến hòa bình” mà Mỹ tuyên bố dùng để thay thế cho “chiến lược ngăn chặn cộng sản”. Chính sách của các chính quyền Mỹ đối với Triều Tiên vẫn theo một lối mòn của thời Chiến tranh lạnh(6).
Khác biệt duy nhất chỉ là việc Mỹ tăng cường sử dụng các cơ chế đa phương, trước hết là HĐBA, để gây áp lực đối với Triều Tiên (7). Bức tranh tương phản về sự phát triển giữa hai miền Triều Tiên là lý do mà các nhà lãnh đạo Triều Tiên luôn phải cảnh giác trước những chuyến hàng “viện trợ nhân đạo” cùng các dự án đầu tư của các nước lớn. Trên thực tế, những việc làm của Mỹ và các nước đồng minh từ sau năm 1993 đến nay trong quan hệ với Triều Tiên càng khiến sự nghi kỵ này thêm sâu sắc.
Thứ tư, đó là sự đan xen lợi ích rất phức tạp tại bán đảo Triều Tiên. Sau Chiến tranh lạnh, hiếm có điểm nóng nào trên thế giới mà có tới bốn nước lớn cùng dính líu chặt chẽ. Tuy có cùng quan điểm về hướng giải quyết vấn đề hạt nhân của Triều Tiên là phải thông qua con đường ngoại giao nhưng giữa họ lại hiếm khi đạt được sự đồng thuận trong từng biện pháp cụ thể. Trung Quốc và Nga tuy ủng hộ nghị quyết số 1718 của HĐBA nhưng lại phản đối những biện pháp có thể dồn Triều Tiên vào chân tường.
Thứ năm, do tính phức tạp của chính vấn đề hạt nhân, như trên đã phân tích. Hiện tại, cộng đồng quốc tế hầu như chưa tìm ra một hướng giải quyết triệt để nào cho bất cứ một vấn đề có tính toàn cầu, tiêu biểu như vấn đề phổ biến vũ khí hạt nhân. Sự khác biệt từ quan điểm tới hành động của các nước vẫn đang là lý do khiến quá trình giải quyết các vấn đề toàn cầu luôn gặp rất nhiều khó khăn.
Đi tìm một giải pháp mới
Trong lịch sử, đã không ít vấn đề tưởng chừng không có lối thoát nhưng cuối cùng vẫn được giải quyết nhờ có bước đột phá. Một trường hợp có tính điển hình trong trường hợp này là sự kiện ký kết Hiệp ước (còn gọi là Thỏa hiệp) Trại Đa-vít (Camp David) năm 1978 giữa I-xra-en và Ai Cập đã tạo ra một cục diện hoàn toàn mới tại Trung Đông(8).
Tương đồng với tình hình tại Trung Đông, sở dĩ tình trạng căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên cứ kéo dài liên tục trong thời gian qua chính là vì các bên không chịu thừa nhận những thực tế đã tồn tại và khó có thể đảo ngược, cụ thể là:
- CHDCND Triều Tiên hiện đang sở hữu vũ khí hạt nhân và có các điều kiện để tiếp tục theo đuổi chương trình hạt nhân của họ. Điều kiện tiên quyết của Mỹ đòi hỏi Triều Tiên phải chấm dứt ngay chương trình này và tiêu hủy số vũ khí hạt nhân mà Triều Tiên đang sở hữu là hoàn toàn không thể thực hiện, đặc biệt trong điều kiện Mỹ vẫn theo đuổi chính sách thù địch với Triều Tiên. Trong khi đó, Mỹ, cũng như các cường quốc hạt nhân khác, chắc chắn không bao giờ chịu tiêu hủy hết kho vũ khí hạt nhân của mình. Dù đã nhiều lần cắt giảm nhưng họ vẫn giữ lại một số lượng vừa đủ để gây áp lực đối với những nước có tham vọng sở hữu loại vũ khí hủy diệt hàng loạt này. Mặt khác, do tính chất nguy hiểm của vũ khí hạt nhân nên mọi mưu toan sở hữu nó chắc chắn sẽ bị lên án - đó cũng là một thực tế.
- Công nghệ hạt nhân nhằm phục vụ dân sinh đang là đòi hỏi bức thiết của nhiều quốc gia trên thế giới do các nguồn năng lượng đang dần cạn kiệt. Không thể sử dụng bất cứ một cơ chế quốc tế hay hành động bạo lực nào để ngăn cản nhu cầu chính đáng này.
- Tuy có sự dính líu lợi ích của nhiều bên tại bán đảo Triều Tiên nhưng quan hệ Triều Tiên - Mỹ có tính chất then chốt. Vai trò của Liên hợp quốc (cụ thể là HĐBA) trong các vấn đề an ninh là không thể phủ nhận, nhưng các nghị quyết của tổ chức quốc tế quyền lực nhất này thường rất ít tác dụng trong vấn đề hạt nhân. Muốn tháo gỡ vấn đề hạt nhân của Triều Tiên, trước hết, phải bắt đầu từ mối quan hệ song phương này.
- Sự nghi kỵ giữa các bên, trước hết là giữa Mỹ và Triều Tiên, là hết sức sâu sắc và có bề dày lịch sử. Sự thay đổi đến chóng mặt trong chính sách hạt nhân của Triều Tiên hay việc Mỹ không thực hiện đúng những gì đã cam kết cũng đều bắt nguồn từ thói quen luôn nghi ngại lẫn nhau. Trong tiến trình đàm phán 6 bên, dường như mọi đề xuất đều bị đặt dấu hỏi cho tính chân thực.
Kinh nghiệm từ Hiệp ước Trại Đa-vít cho thấy, đã đến lúc cần có một sự thay đổi trong tiến trình giải quyết vấn đề hạt nhân của Triều Tiên. Đây là thời điểm thích hợp để Mỹ và CHDCND Triều Tiên ký một hiệp định hòa bình. Hiệp định này sẽ tạo tiền đề cho các bước tiếp theo nhằm tháo gỡ điểm nóng này, bởi nó sẽ dần tạo dựng được lòng tin giữa Mỹ và Triều Tiên. ở giai đoạn trước, hiệp định hòa bình khó có thể đạt được do chính sách của các bên vẫn chịu ảnh hưởng quá nặng bởi thói quen tư duy trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Chính quyền Bu-sơ ngoài việc theo đuổi chính sách đơn phương cứng nhắc còn bị ám ảnh bởi sự kiện ngày 11-9-2001 nên luôn coi CHDCND Triều Tiên là quốc gia “bất trị” và muốn dùng áp lực để buộc nước này phải tuân thủ các điều kiện do chính họ đặt ra. CHDCND Triều Tiên vẫn cho rằng, vũ khí hạt nhân sẽ là “phương thuốc” chữa trị tất cả các căn bệnh, kể cả những khó khăn về kinh tế, bất kể đây là một vấn đề toàn cầu. Ngay cả Nhật Bản, nước có ảnh hưởng ít hơn đến tiến trình này, cũng luôn gắn vấn đề hạt nhân với những câu chuyện từ thời Chiến tranh lạnh như vấn đề người Nhật bị bắt tại Triều Tiên. Có thể thấy, thời điểm hiện nay đã có những thay đổi tạo điều kiện thuận lợi để một hiệp định hòa bình được ký kết, cụ thể là:
Một là, tất cả các bên tham gia đàm phán đều nhận thức được sự bế tắc của các giải pháp đã và đang thực hiện. Hơn thế, tần suất những vụ va chạm giữa Triều Tiên với Mỹ hay với Hàn Quốc đang tăng lên theo chiều hướng ngày càng phức tạp và đa dạng. Bán đảo Triều Tiên giờ đây đang đứng trước ngưỡng của sự nguy hiểm cao nhất.
Hai là, khác với người tiền nhiệm, chính quyền của Tổng thống B. Ô-ba-ma đang theo đuổi chính sách ôn hòa hơn. Sự thay đổi trong chính sách đối với cộng đồng người Hồi giáo cho thấy chính quyền Ô-ba-ma có nhiều khả năng sẽ chấp thuận “xuống thang” trong vấn đề hạt nhân của Triều Tiên.
Ba là, sau tất cả những gì đã đạt được trong chương trình hạt nhân, CHDCND Triều Tiên buộc phải quay về giải quyết những vấn đề dân sinh. Nếu Mỹ chấp nhận một hiệp định hòa bình thì CHDCND Triều Tiên không thể phản đối bởi đây chính là điều kiện mà họ đưa ra. Tình trạng cô lập ngoại giao là điều mà Triều Tiên hoàn toàn không muốn vào thời điểm này.
Bốn là, sự ủng hộ của các nước còn lại như Trung Quốc, Nga, Nhật Bản và Hàn Quốc là điều dễ thấy, bởi một hiệp định hòa bình giữa Mỹ và Triều Tiên sẽ có lợi cho các chương trình phát triển của họ trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt. Hơn thế, hiệp định hòa bình chỉ là bước khởi đầu cho một sự thay đổi chứ chưa phải là tất cả.
(1) Thông tấn xã Việt Nam: Tài liệu tham khảo số 4-2003, tr 12
(2) http://www.un.org/docs/sc/resolution on northkorea
(3) Thông tấn xã Việt Nam: Tài liệu đã dẫn, tr 8
(4) Triều Tiên chấp nhận đàm phán, http://vnexpress.net, ngày 17-12-2009
(5) Triều Tiên muốn chấm dứt chiến tranh trong năm nay, http://vietnamnet.vn ngày 12-01-2010
(6) Joel Wit: The United States and North Korea, The Brookings Institution, Policy Brief 74, 3-2001
(7) Hillary R. Clinton: US-Asia Relations: Indispensable to our Future”, speech, Asia Society, N.Y, February 13, 2009, http://www.states.gov/secretary/rm/2009a/02/117333.htm
(8) Trước khi đạt được thỏa hiệp, chính sách của I-xra-en và Liên đoàn A-rập đối với nhau luôn mang tính đối kháng, không một chút khoan nhượng. Hậu quả của chính sách đối đầu giữa hai bên đã dẫn đến 4 cuộc chiến tranh Trung Đông đẫm máu. Các nước A-rập kiên quyết không công nhận sự tồn tại của Nhà nước Do Thái. Bước ngoặt đến khi Tổng thống An-oa Xa-đát (Anwar Sadat) nắm quyền tại Ai Cập. Việc ông Xa-đát quyết định công nhận ngoại giao I-xra-en thực sự là một cú sốc tại Trung Đông vào thời điểm đó. Hiệp ước Trại Đa-vít đã mở đường cho một hiệp định hòa bình đã được ký kết giữa Xa-đát và Thủ tướng I-xra-en M.Be-gin (tháng 3-1979) và quan trọng hơn cả là đã tạo ra một cục diện hoàn toàn mới tại Trung Đông. Nhờ sự đảo chiều trong chính sách của cả Ai Cập và I-xra-en mà hòa bình giữa hai nước đã được thiết lập, Ai Cập lấy lại được bán đảo Xi-nai (bị I-xra-en chiếm đóng sau cuộc chiến tranh 1948-1949) (TG)
Yên Bái phấn đấu phát triển kinh tế toàn diện  (29/10/2010)
Khai mạc Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XVII  (28/10/2010)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm