Doanh nhân là một bộ phận đặc thù của trí thức
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, quả đúng khi có ý kiến cho rằng: "thương trường là chiến trường". Ở "chiến trường" này, nếu các doanh nhân hạn chế về tri thức, thì không chỉ bản thân họ dần trở nên lạc hậu, hoạt động kinh doanh mất dần sức cạnh tranh, mà suy rộng ra còn kéo theo nền kinh tế của đất nước họ bị tụt hậu.
Doanh nhân xứng đáng được xem là một bộ phận đặc thù của trí thức: trí thức - doanh nhân
Trong thời kỳ hội nhập ngày nay, vị trí, vai trò của doanh nhân ngày càng được khẳng định và coi trọng do có những đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, và minh chứng cụ thể cho điều này là, ngày 13-10-2004 được lấy làm Ngày Doanh nhân Việt Nam. Song cho đến nay, chúng ta vẫn chưa đưa ra được một quan niệm thật sự rõ ràng, thống nhất thế nào là "doanh nhân".
Theo Wikipedia, doanh nhân là những người chủ chốt trong việc quản trị, điều hành một doanh nghiệp. Đó có thể là những người đại diện cho các cổ đông, các chủ sở hữu (thành viên Hội đồng Thành viên, Hội đồng Quản trị, Ban Kiểm soát) hoặc trực tiếp điều hành các doanh nghiệp (thành viên Ban Giám đốc). Hiểu theo nghĩa rộng, doanh nhân là những người có vị trí trong một doanh nghiệp và làm công việc quản trị doanh nghiệp; là những ngưòi có năng khiếu đặc biệt về kinh doanh, có kỹ năng đặc biệt về kinh doanh, có kinh nghiệm phong phú để ứng dụng trong kinh doanh. Vai trò chính của doanh nhân là xây dựng các doanh nghiệp, vận hành, phát triển doanh nghiệp để làm ra hàng hóa dịch vụ cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm cho người dân. Doanh nhân phải làm ra lợi nhuận và đóng góp cho xã hội (1).
Trên Tạp chí Tâm lý học, Nguyễn Đức Thạc khẳng định rằng, "doanh nhân" là một từ Hán Việt. "Doanh" là lãi. "Doanh nhân" là người làm ăn kiếm lời, là người coi lời lãi là nhu cầu, mục đích, động cơ hoạt động của bản thân mình, là định hướng giá trị cơ bản của hoạt động và quan hệ của cá nhân mình. Lãi và vốn, lợi nhuận và tư bản có quan hệ cặp đôi như hình với bóng. Chỉ khi nào vốn là của tôi thì lãi mới là của tôi. Lợi nhuận của tôi gắn liền với sở hữu cá nhân. Khi ấy "cái của tôi" làm cho "cái tôi" trở nên có cơ sở thực tế, cụ thể, xác định. Hiểu khái niệm doanh nhân như vậy cho phép giới hạn đối tượng: Doanh nhân là những người thực sự làm chủ các quan hệ kinh tế trong các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp tư nhân, từ quan hệ sở hữu đến quan hệ điều hành và quan hệ phân phối. Doanh nhân là những "ông chủ" các doanh nghiệp tư nhân.
Quan niệm vừa nêu về "doanh nhân" liệu có làm hẹp đi ngoại diên được bao quát trong khái niệm này, khi trong thực tế ở nước ta đang tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần: bên cạnh doanh nghiệp tư nhân, có doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp hợp danh, công ty cổ phần... Và, những người đảm đương chức vụ quản lý các loại doanh nghiệp nêu trên có hay không phải là doanh nhân?
Ý kiến của Vũ Quốc Tuân đăng trên báo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần (13-10-2007) cho rằng, doanh nhân là những chủ doanh nghiệp trực tiếp kinh doanh doanh nghiệp của mình, những người được cử hoặc được thuê để quản lý doanh nghiệp, thực hiện nhiệm vụ kinh doanh; trách nhiệm và lợi ích của họ gắn liền với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, mà yêu cầu đầu tiên là họ phải có đủ điều kiện để sáng tạo, không ngừng phát triển doanh nghiệp.
Sáng tạo trong hoạt động của doanh nhân là sáng tạo của những người có chức năng quản lý doanh nghiệp, là lao động trí tuệ. Sáng tạo lại là đặc trưng trong hoạt động của trí thức. Cho nên, theo nghĩa đó, ông hoàn toàn có lý khi khẳng định rằng, tự nó, doanh nhân đã là một nhà trí thức. Bởi lẽ, hoạt động của doanh nhân mang trong mình đầy đủ đặc trưng cơ bản của trí thức mà Đại từ điển Tiếng Việt đã nêu: "Trí thức là người chuyên làm việc, lao động trí óc"(2).
Trong quan niệm của Vũ Quốc Tuân về "doanh nhân", theo chúng tôi, có điểm cần chuẩn xác hóa thêm việc doanh nhân "phải có đủ điều kiện để sáng tạo, không ngừng phát triển doanh nghiệp" với việc người đó "có khả năng sáng tạo, để không ngừng phát triển doanh nghiệp" hay không là hai vấn đề khác nhau, nếu coi "điều kiện" ở đây chỉ là môi trường làm việc, là các nhân tố bên ngoài đối với hoạt động của doanh nhân. Thực tế chứng minh rằng, không phải mọi người được sống trong môi trường có đủ điều kiện để sáng tạo đều là những người đưa ra được những quyết định mang tính sáng tạo đúng đắn để đưa doanh nghiệp phát triển bền vững. Theo chúng tôi, ý "họ phải có đủ điều kiện để sáng tạo" ở đây trước hết là nói đến năng lực nội tại của doanh nhân: 1. Họ phải là người có năng lực trí tuệ cao, có sáng kiến, có khả năng nắm bắt nhanh và đúng đắn thông tin của thị trường để đưa ra những quyết định chuẩn xác, đúng lúc; 2. Có năng lực thuyết phục cấp dưới, đồng nghiệp thấy được tính đúng đắn trong quyết định của mình để từ đó thúc đẩy họ tự giác thực hiện; 3. Có năng lực quy tụ sức mạnh của cộng đồng dưới quyền; 4. Có khả năng quyết đoán trong những tình huống khó khăn, cấp bách; 5. Nắm bắt được năng lực, nhu cầu và tâm lý của đối tượng quản lý để sử dụng họ đúng với yêu cầu công việc, nhằm vừa đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, vừa phù hợp với sở trường, nguyện vọng của người thực hiện nhiệm vụ được giao. Doanh nhân cũng đồng thời phải là người có đầu óc mạo hiểm dựa trên trực giác kinh tế, sự mẫn cảm kinh tế...
Liên quan tới một loạt nhân tố nêu trên, năng lực trí tuệ của doanh nhân cũng bao hàm cả tài năng tuyên truyền, vận động, thuyết phục quần chúng, tài năng sư phạm của họ: Có khả năng truyền đạt một cách rõ ràng quyết định của mình cho cấp thực thi, bảo đảm tính lô-gíc, dễ hiểu, dễ thực hiện... Có thể coi, biết biến quyết định của doanh nhân - nhà quản lý doanh nghiệp - thành sự tự quyết định của chính quần chúng dưới quyền là nhân tố bảo đảm cực kỳ quan trọng cho việc phát huy tính tự giác, nâng cao sự quyết tâm vượt mọi khó khăn để hiện thực hóa quyết định quản lý của doanh nhân. Liên quan tới vấn đề này, doanh nhân cần có thái độ dân chủ trong quan hệ giữa mình và những người dưới quyền, với đồng nghiệp. Biết làm việc với con người, biết tôn trọng con người là đòi hỏi không thể thiếu về phẩm chất trí tuệ của doanh nhân.
Doanh nhân là nhà quản lý doanh nghiệp, có thể họ am hiểu chiến lược phát triển của doanh nghiệp, triết lý kinh doanh của doanh nghiệp, nắm được những yêu cầu cơ bản của lĩnh vực mà doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh; song chắc chắn họ không phải là chuyên gia trên tất cả các lĩnh vực liên quan tới hoạt hoạt động của doanh nghiệp. Để giúp doanh nhân có những quyết định đúng đắn, họ phải biết sử dụng và xây dựng được đội ngũ chuyên gia (có thể là những người trực tiếp làm việc trong doanh nghiệp của họ, hoặc là cộng tác viên). Yếu tố nhanh nhạy trong tìm hiểu, phán đoán là rất cần thiết đối với họ để biết vấn đề gì cần tham vấn ý kiến chuyên gia nào. Họ cũng cần có kỹ năng đàm đạo một cách dân chủ với chuyên gia, biết trân trọng những ý kiến tham vấn của chuyên gia, song cũng cần giữ vững tính tự chủ và quyết đoán của mình khi đưa ra bất kỳ quyết định nào, vì xét cho cùng, họ là người phải chịu trách nhiệm về các quyết định do mình đưa ra. Điều đó có nghĩa, doanh nhân phải là người biết kết hợp hài hòa giữa thảo luận dân chủ với vai trò quyết định tập trung của bản thân mình. Liên quan tới vấn đề này, xin nhắc một ý sau đây của V.I. Lê-nin: Thảo luận thì cứ thảo luận, càng dân chủ, càng rộng rãi, càng công khai càng tốt, nhưng quyết định phải là thủ trưởng. Ai không hiểu điều đó chứng tỏ người đó chậm giác ngộ lập trường giai cấp hơn các ngài tư sản. Trong thời kỳ trước đổi mới, không chỉ ở lĩnh vực doanh nghiệp, mà trên nhiều lĩnh vực khác, một yếu kém của chúng ta trong lãnh đạo, quản lý là tuyệt đối hóa quá mức cần thiết của chế độ lãnh đạo, quyết định tập thể, trách nhiệm tập thể... dẫn tới làm lu mờ vai trò và trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu, lãnh đạo cơ quan, tổ chức... Thành công là thành tích của chúng ta. Thất bại cũng là trách nhiệm của chúng ta. Quan niệm "Tất cả chúng ta phải chịu trách nhiệm", theo sự chuyển hóa biện chứng của nó, sẽ là "chẳng ai chịu trách nhiệm cả". Hiện nay, trong tiến trình đổi mới, tình trạng đó đã và đang dần được khắc phục, thể hiện rõ trong quản lý doanh nghiệp, trong việc nêu cao vai trò và trách nhiệm của doanh nhân. Ví dụ như, giám đốc nào để doanh nghiệp hai năm liền thua lỗ mà không có lý do bất khả kháng thì không tiếp tục giữ cương vị đó.
Như vậy, có thể nói, do chức năng và nhiệm vụ của mình, để hoàn thành trách nhiệm trước doanh nghiệp, doanh nhân phải là người có trình độ trí tuệ cao (dù có được biểu hiện về mặt hình thức qua thước đo bằng cấp hay không); hoạt động đặc trưng của họ là hoạt động trí tuệ: tìm tòi sáng tạo để đưa ra các quyết định quản lý đúng đắn cho phép phát huy mọi nguồn lực của doanh nghiệp nhằm mang lại năng suất cao, chất lượng tốt nhưng vẫn bảo đảm tiết kiệm để đạt mục tiêu đem lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp. Xét từ yêu cầu phẩm chất trí tuệ như vậy, họ xứng đáng được xem là một bộ phận đặc thù của trí thức: trí thức - doanh nhân.
Biến tri thức thành nội lực phục vụ thiết thực sự phát triển kinh tế đất nước
Để hoàn thành trách nhiệm trước doanh nghiệp, doanh nhân phải là người có trình độ trí tuệ cao (dù có được biểu hiện về mặt hình thức qua thước đo bằng cấp hay không); hoạt động đặc trưng của họ là hoạt động trí tuệ: Tìm tòi sáng tạo để đưa ra các quyết định quản lý đúng đắn cho phép phát huy mọi nguồn lực của doanh nghiệp nhằm mang lại năng suất cao, chất lượng tốt nhưng vẫn bảo đảm tiết kiệm để đạt mục tiêu đem lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp.
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng ngày nay, để doanh nhân thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ góp phần thúc đẩy nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, từ đó giúp tăng cường ổn định chính trị - xã hội, năng lực trí tuệ của đội ngũ này cần có bước phát triển vượt trội. Do đặc trưng nghề nghiệp như đã nêu trên, họ phải nắm vững tri thức khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn - từ lý luận cơ bản nhất tới khoa học ứng dụng; có năng lực vận dụng những tri thức đó vào việc giải quyết những vấn đề thực tiễn quản lý doanh nghiệp. Trong vấn đề này, chỉ riêng năng lực nắm bắt, tiếp thu thành tựu khoa học đã được tạo ra thì vẫn chưa đủ, dẫu rằng đó đã là điều không dễ, mà còn phải có năng lực sáng tạo ra những tri thức mới, đúng đắn, góp phần nâng cao khả năng nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình. Không đạt được yêu cầu thứ hai đó, nền kinh tế nước ta sẽ vẫn chỉ "đi sau, đi chậm", thậm chí tụt hậu. Trong thế giới đầy biến động với sự cạnh tranh ngày một quyết liệt trên nhiều lĩnh vực, dù được chuyển giao thành tựu khoa học - công nghệ 100%, chúng ta vẫn cần có năng lực tiếp nhận sự chuyển giao đó để tránh tình trạng bị phụ thuộc, lệ thuộc. Hơn nữa, trên bình diện kỹ thuật - công nghệ, khó có ai nắm vững những điều kiện đặc thù đất nước và con người Việt Nam hơn các nhà trí thức - doanh nhân Việt Nam; và cũng khó có nhà trí thức - doanh nhân nước nào khác có thể tìm được lời giải đáp cụ thể, thiết thực cho mọi vấn đề, khúc mắc nảy sinh từ thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam, ngoài chính các doanh nhân Việt Nam.
Thực trạng đó đang ngày càng trở nên bức xúc hơn, đặt ra những thách thức, những "bài toán" hóc búa cho doanh nhân Việt Nam, yêu cầu doanh nhân nước ta phải không ngừng nâng cao trình độ, tri thức và năng lực, kinh nghiệm thực tiễn, bởi khó có thể tìm ra được lời giải có sẵn từ kinh nghiệm giải các bài toán về sự phát triển của những nước khác. Đòi hỏi này hoàn toàn không thể tương dung với lối tư duy theo đường mòn, lối tư duy bắt chước. Trong lịch sử chống ngoại xâm của cha ông ta nói chung, trong hai cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới xâm lược nói riêng, chúng ta giành được chiến thắng nhờ vào một phần không nhỏ từ sự sáng tạo. Ngày nay, để chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, chúng ta cũng cần có năng lực sáng tạo như thế, thậm chí, phải đạt yêu cầu sáng tạo cao hơn về chất.
Bên cạnh việc phát huy nội lực, trước hết là nguồn lực con người Việt Nam, là nhân tố quyết định của sự phát triển đất nước, tầm trí tuệ của doanh nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng đòi hỏi phải có năng lực và bản lĩnh khai thác, làm chủ được những thành quả trí tuệ của nhân loại, biến ngoại lực đó thành nội lực cho sự phát triển đất nước. Trong vấn đề này, cả sự tự ti dân tộc lẫn sự kiêu ngạo đều là kẻ thù của sự phát triển. Thái độ khiêm tốn là cần thiết, song sự khiêm tốn tới mức coi mình nhỏ bé, thua kém... sẽ dần làm nhụt ý chí vươn lên, đánh mất lòng tự tôn dân tộc, làm thui chột năng lực sáng tạo của nhân dân nói chung, của doanh nhân Việt Nam nói riêng. Ngược lại, sự kiêu căng, đề cao quá mức bản thân, xem thường, đánh giá không đúng năng lực sáng tạo của nhân dân, của doanh nhân nước khác sẽ ngăn cản chúng ta trong việc nhìn nhận thành quả chung của nhân loại, không biết làm giàu trí tuệ của mình bằng kho tàng trí tuệ mà nhân loại đã tạo ra như V.I. Lê-nin từng nhắc nhở. Sự tự tôn thái quá sẽ dẫn tới chủ nghĩa biệt phái. Trí tuệ của một dân tộc, một quốc gia nói chung, của một doanh nhân nói riêng không đơn giản là sản phẩm phát triển riêng biệt của dân tộc, quốc gia hay doanh nhân đó, mà còn là thành quả kế thừa tri thức nhân loại.
Ph. ăng-ghen đã chỉ ra rằng: "một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận"(3). Điều đó cũng hoàn đúng khi nói về đội ngũ doanh nhân. Để thực thi có hiệu quả cao chức năng của mình, doanh nhân phải là người đứng ở tầm cao của tư duy lý luận.
Một tư duy đúng đắn tự nó mang tính sáng tạo rất cao, có khả năng thâm nhập vào bên trong sự vật và hiện tượng; nó mang lại cho chủ thể tư duy, mà cụ thể là doanh nhân, những tri thức mới, đúng đắn về cái bản chất, mang tính quy luật (hay quy luật) của đối tượng được phản ánh; xuyên qua hiện tượng đa dạng, phong phú của cái bề ngoài, thường xuyên thay đổi. Tư duy đúng đắn cũng đồng thời không chỉ mang lại cho doanh nhân nhận thức sâu sắc, mà còn có khả năng đem đến suy nghĩ, hành động đúng đắn, đạt hiệu quả cao về cả lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị - xã hội.
Bên cạnh việc phát huy nội lực, trước hết là nguồn lực con người Việt Nam, tầm trí tuệ của doanh nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng đòi hỏi phải có năng lực và bản lĩnh khai thác, làm chủ được những thành quả trí tuệ của nhân loại, biến ngoại lực đó thành nội lực phục vụ sự phát triển đất nước.
"Tư duy" ở đây có hai cấp độ tồn tại cơ bản: tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận. Tư duy kinh nghiệm là loại tư duy được nảy sinh trực tiếp từ kinh nghiệm sống, kinh nghiệm hoạt động hằng ngày của mỗi người. Nó dừng lại ở việc mô tả những thuộc tính, đặc điểm của sự vật, chưa cho phép con người khám phá ra những yếu tố mang tính bản chất, mang tính quy luật. Chúng ta không phủ nhận giá trị của kinh nghiệm, của tư duy kinh nghiệm, bởi vì, trong giới hạn nhất định, đối với hoạt động nhằm thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể nhất định..., việc nắm vững và vận dụng đúng đắn tư duy kinh nghiệm là hết sức quan trọng. Nhìn chung, đối với những người lao động trực tiếp, phải giải quyết những nhiệm vụ cụ thể mang tính ổn định..., tư duy kinh nghiệm có vai trò tác động không nhỏ đến kết quả hoạt động của họ. Tất nhiên, cũng cần tỉnh táo để tránh tình trạng tư duy kinh nghiệm dựa trên sự tuyệt đối hóa kinh nghiệm nên dễ trở thành trì trệ, bảo thủ, giáo điều, rập khuôn máy móc, khiến cho một tri thức nào đó có thể từ đúng đắn lại thành sai lầm, khi hoàn cảnh đã thay đổi.
Khác với tư duy kinh nghiệm, tư duy lý luận là loại tư duy dựa trên nhận thức lý tính sâu sắc, mang tầm khái quát; nó được thực hiện bằng việc vận dụng một loạt khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật để đi sâu vào khách thể nhằm đạt được tri thức về những cái căn bản, cái bản chất, cái phổ biến, cái ổn định đằng sau cái nhất thời, cái bề ngoài, cái dễ thay đổi của đối tượng nhận thức.
Thông cáo số 5 Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XII  (22/10/2008)
Tăng cường năng lực cơ chế quốc gia của ASEAN vì sự tiến bộ của phụ nữ  (22/10/2008)
Quốc hội với việc thực hiện CEDAW  (22/10/2008)
Việt Nam đóng góp tích cực vào các hoạt động của Liên hợp quốc vì mục tiêu hòa bình và phát triển  (22/10/2008)
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam với đội ngũ nữ doanh nhân thời hội nhập  (22/10/2008)
- Một số vấn đề về chuyển đổi nội dung số trong các tạp chí của Việt Nam hiện nay
- Tỉnh Nam Định xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
- Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Pháp: Nền tảng góp phần phát triển quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Pháp
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay