Sử dụng nước sạch với phụ nữ nông thôn - vẫn chỉ là mơ ước?*
TCCS - Phụ nữ nông thôn chịu nhiều thiệt thòi về cuộc sống, trong đó việc được tiếp cận với nguồn nước sạch - nhu cầu tối thiểu và quan trọng trong sinh hoạt hằng ngày - cũng rất khó khăn, từ đó kéo theo nhiều hệ lụy khác về thói quen sinh hoạt không hợp vệ sinh, bệnh tật, chất lượng cuộc sống, vấn đề xóa đói, giảm nghèo...

Rất ít nông dân Hà Nội, trong đó có phụ nữ nông thôn được dùng nước sạch
Phụ nữ nông thôn là đối tượng chịu tác động nhiều nhất từ việc không được dùng nguồn nước hợp vệ sinh do thường xuyên phải tiếp xúc với môi trường nước từ công việc lao động sản xuất, nội trợ. Mặt khác, do đặc thù giới, họ là đối tượng nhạy cảm, dễ chịu tác động xấu đối với sức khỏe và mắc các bệnh từ tình trạng ô nhiễm, suy thoái nguồn nước...
Người dân nông thôn, trong đó có phụ nữ được sử dụng nước hợp vệ sinh ngày càng gia tăng, tuy nhiên trên thực tế, số người chưa được dùng nước sạch cũng vẫn còn rất nhiều. Ngay tại vùng ngoại thành Thủ đô Hà Nội, tính đến đầu quý I năm 2009, mới có 15,1% số dân nông thôn được sử dụng các công trình cấp nước nông thôn tập trung, 1,7% số dân nông thôn sử dụng nước từ hệ thống cấp nước đô thị, tại 8 huyện của Hà Tây (cũ) và huyện Mê Linh tỷ lệ này chỉ đạt... 1%. Rõ ràng, con số 1% ít ỏi khiến nhiều người không khỏi giật mình! Qua đấy cũng cho thấy, việc cấp nước sạch cho người dân nông thôn, Hà Nội đã vậy, ở các địa phương khác trên cả nước, còn khó khăn hơn rất nhiều.
Việc ít hộ được cấp nước bằng hệ thống đường ống, không có nước sạch sử dụng, khiến phụ nữ nông thôn chủ yếu sử dụng nước mặt thủy lợi ô nhiễm vi sinh lấy trực tiếp từ ao, hồ, kênh rạch, sông chưa qua lắng lọc hoặc dùng nước giếng đào, nước mưa không được che đậy kỹ, chất lượng không đạt tiêu chuẩn vệ sinh. Thêm vào đó, nguồn nước sử dụng cho ăn uống và sinh hoạt của người dân đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi các chất thải sinh hoạt khu dân cư, bệnh viện, chất thải công nghiệp, nông nghiệp. Hậu quả là, hàng loạt các bệnh: Hô hấp, đường ruột, nhất là bệnh phụ khoa xảy ra ở phụ nữ nông thôn có nguy cơ tăng cao. Theo Cục Y tế dự phòng và Môi trường (Bộ Y tế) thì tại Việt Nam có tới 80% các bệnh có liên quan đến nguồn nước.
Nhiều nguyên nhân khiến việc tiếp cận nguồn nước sạch của phụ nữ nông thôn hạn chế, trong đó đáng kể nhất là tình trạng hạ tầng kỹ thuật nông thôn thấp kém, chưa có hệ thống nhà máy, trạm bơm, lọc nước sạch; nguồn kinh phí đầu tư của chính quyền cơ sở eo hẹp, người dân còn nghèo nên không có khả năng xây dựng hệ thống xử lý nước gia đình; nhận thức của phụ nữ về nước sạch, vệ sinh môi trường hạn chế, nếp sống, thói quen sử dụng nước chưa qua xử lý phổ biến...
Theo thống kê của chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, tính đến tháng 4-2009, chương trình đã cung cấp nước sạch cho khoảng 2,7 triệu nông dân, nâng tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh lên 75%, trong đó, khoảng 40% đạt tiêu chuẩn theo quy định của Bộ Y tế. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, con số thống kê trên nặng về lý thuyết, còn thực tế, tỷ lệ này thấp hơn. Với rất nhiều phụ nữ nông thôn, sử dụng nước sạch để cải thiện cuộc sống gia đình và bảo vệ sức khỏe, đến nay, dường như vẫn chỉ là niềm mơ ước.
Mơ ước dần thành... hiện thực
Tuy nhiên, ở một góc độ khác, có thể thấy, những nỗ lực không ngừng của Chính phủ, sự tâm huyết của các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở và chính những chuyển biến trong nhận thức của phụ nữ nông thôn, đã và đang thúc đẩy tích cực việc đưa nước sạch về với đối tượng này.
Phụ nữ cơ sở tại nhiều địa phương đã chủ động tham gia trực tiếp đóng góp ý kiến xác đáng trong việc thực hiện các dự án cấp, thoát, thải nước như chọn vị trí xây dựng, vận hành và bảo dưỡng công trình lâu bền phù hợp với điều kiện của địa phương; sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên nước; phát hiện những sự cố, hỏng hóc, rò rỉ, mô tả chi tiết những diễn biến để có hướng khắc phục kịp thời...
Hội Phụ nữ các cấp vận động, hướng dẫn hàng triệu lượt phụ nữ tham gia công tác nước sạch - vệ sinh môi trường, thay đổi phong tục tập quán lạc hậu, hỗ trợ phụ nữ về vốn, kỹ thuật, tạo ra nhiều mô hình nước sạch. Hiện nay Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đang thực hiện 11 loại mô hình phụ nữ thực hiện nước sạch - vệ sinh môi trường tại cơ sở. Các mô hình được áp dụng theo vùng miền, phù hợp với yêu cầu trong tình hình mới và phong tục, văn hóa của các địa phương. Đó là các mô hình về cung cấp nước sạch; bếp đun cải tiến tiết kiệm nhiên liệu, bảo vệ sức khỏe cho vùng nông thôn; mô hình vệ sinh môi trường, phân loại rác tại nguồn, xử lý rác thải, xây dựng hầm bi-ô-ga; quỹ quay vòng vốn vệ sinh..., bước đầu phát huy hiệu quả, thiết thực đi vào cuộc sống, giúp ích cho phụ nữ nông thôn. Chẳng hạn như việc thực hiện hùn vốn trả góp mua bình lọc nước tại Trà Vinh, Tiền Giang, Vĩnh Long, An Giang... Từ ý thức được tầm quan trọng của sử dụng nước sạch, hằng tuần, mỗi chị em tiết kiệm từ 3.000 - 5.000 đồng đóng góp vào quỹ vay vốn của nhóm phụ nữ để lần lượt cho nhau vay mua bình lọc nước trả góp theo tuần. Đến nay, 25.000 bình lọc nước đã được Hội Phụ nữ mua về cho chị em dùng, sau 1 năm, tất cả các gia đình đều thanh toán được hết tiền mua bình cho quỹ.
Thực hiện mô hình quỹ quay vòng vốn, hiện nay Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp quản lý trên 1.000 tỉ đồng vốn quay vòng làm các công trình nước sạch - vệ sinh môi trường và đang vận hành hiệu quả tại cơ sở. Ví dụ: Sóc Trăng huy động được 123 triệu đồng xây 6 cây nước, Long An quyên góp 44,3 triệu đồng giúp gia đình khó khăn làm bể chứa nước mưa... Ngoài quỹ tự đóng góp của phụ nữ, còn có quỹ quay vòng vốn cho cấp nước và vệ sinh gia đình của Ngân hàng thế giới. Các mô hình vay vốn tín dụng được quản lý chặt chẽ, đối tượng vay là phụ nữ có thu nhập thấp, mức vay từ 200.000 đồng (xây bếp cải tiến), 300.000 đồng (xây lu chứa nước mưa) đến 2 triệu, 4 triệu đồng để làm nhà vệ sinh tự hoại, đào giếng, mắc nước về nhà. Tỷ lệ thu hồi vốn lãi rất cao từ 98% - 100%, ngoại trừ một vài trường hợp rủi ro bất khả kháng.
Nhiều địa phương không trông chờ các nguồn vốn của Nhà nước mà bằng tâm huyết, sức sáng tạo của mình, tự nghiên cứu đưa nước sạch về với phụ nữ nông thôn. Chẳng hạn như mô hình cấp nước sạch và nhà vệ sinh tự hoại, bán tự hoại hộ gia đình tại huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, sử dụng hệ thống lọc nước vận hành khá đơn giản, nguồn nước tự nhiên từ kênh rạch, ao, hồ... được bơm vào hệ thống chứa nước lắng lọc, sau đó khử trùng bằng 3 hợp chất: Cl, Soda và PAC, tạo ra nguồn nước sạch trong sinh hoạt hằng ngày: ăn uống, tắm giặt, tránh các bệnh do sử dụng nguồn nước ô nhiễm gây ra. Tại Nam Định, mô hình cấp nước sạch liên xã đang được triển khai hiệu quả, thay vì trước đây phải xây dựng mỗi xã một công trình nước sạch, nay chỉ cần xây dựng một công trình cấp nước tập trung có quy mô lớn, cung cấp nước sạch cho 5 - 7 xã, giảm 20% - 30% chi phí đầu tư, khai thác triệt để nguồn nước mặt tại các sông lớn để xử lý.
Khắc phục sự chênh lệch về thụ hưởng nước sạch giữa vùng đô thị và nông thôn, tình trạng các khu vực ngoại thành mới sáp nhập tỷ lệ người dân được dùng nước sạch rất ít, Hà Nội đã bước vào thực hiện chương trình nước sạch của mình, theo đó, giai đoạn 2010 - 2015, 100% số dân nông thôn sẽ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó trên 60% được sử dụng nước sạch theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế.
Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2006 - 2010 thực hiện với tổng kinh phí 22.600 tỉ đồng, huy động từ vốn ngân sách Nhà nước, tín dụng, các thành phần kinh tế, hỗ trợ của quốc tế và đóng góp của nhân dân, xây dựng gần 160.000 công trình cấp nước sạch. Khối lượng lớn công trình trên chắc chắn sẽ mang lại điều kiện được thụ hưởng một môi trường sống tốt hơn cho phụ nữ nông thôn.
Chặng đường dài... đang ở phía trước
Theo Chương trình mục tiêu quốc gia đến năm 2010, ít nhất có khoảng 85% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch, khối lượng 60 lít/người/ngày. Với điều kiện kinh tế của người dân còn khó khăn, trình độ nhận thức hạn chế, tập quán sinh hoạt lạc hậu, chưa kể đến đội ngũ cán bộ làm công tác nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn rất mỏng, mục tiêu này được cho là khó hoàn thành.
Trong bối cảnh đó, việc đưa nước sạch đến với đông đảo phụ nữ nông thôn vẫn là một chặng đường dài còn nhiều khó khăn phía trước. Hiện nay, tổng vốn đầu tư cho chương trình nước sạch của Nhà nước là tương đối lớn, song do rải rác, phân tán nguồn vốn, tốc độ giải ngân các địa phương chậm, nên nhiều công trình nước sạch không bảo đảm tiến độ hoặc đã được đầu tư nhưng hiệu quả thấp do trình độ quản lý tại chỗ hạn chế; các mô hình manh mún, tỷ lệ phụ nữ tiếp cận với nước hợp vệ sinh không đồng đều giữa các vùng, địa phương...
Đưa nước sạch về nông thôn hiện nay là vấn đề cấp thiết, bởi đây chính là bước khởi đầu cho mục tiêu lâu dài cải thiện, nâng cao chất lượng sống của phụ nữ nông thôn. Không thể bảo đảm sức khỏe, môi trường sống, thực hiện xóa đói, giảm nghèo... khi phụ nữ và gia đình họ chưa được tiếp cận với nguồn nước sạch.
Truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp phụ nữ về nước sạch, môi trường, qua đó thay đổi thói quen dùng nước chưa qua xử lý, bảo vệ nguồn nước, ứng xử thân thiện với môi trường được coi là bước đi tiên phong. Thay đổi nhận thức, tất yếu thay đổi hành vi, nhu cầu có nước sạch để dùng sẽ trở thành nhu cầu tự thân của người phụ nữ nông thôn. Điều này tránh tình trạng nhận thức người phụ nữ về vai trò nước sạch chưa rõ ràng, từ đó dù được đầu tư song không bảo trì, quản lý tốt, dẫn đến sự xuống cấp của các công trình. Lồng ghép việc thực hiện công tác nước sạch cho phụ nữ nông thôn với các chương trình quốc gia khác như: Xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe, dinh dưỡng... để nâng cao hiệu quả việc thực hiện cũng như khả năng kết hợp giữa các đơn vị có liên quan.
Xã hội hóa cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trên cơ sở huy động sự tham gia, đóng góp của mọi thành phần kinh tế và cộng đồng dân cư trong đầu tư vốn, thi công xây lắp, sản xuất thiết bị phụ tùng, các dịch vụ sửa chữa và quản lý vận hành. Nhà nước chỉ đóng vai trò hướng dẫn và hỗ trợ, dựa vào nhu cầu, người dân tự quyết định mô hình cấp nước sạch và vệ sinh phù hợp với khả năng cung cấp tài chính của gia đình mình (quy định người dân đóng góp một phần giá trị công trình để nâng cao ý thức trách nhiệm).
Thời hạn kết thúc chương trình quốc gia về nước sạch giai đoạn 2006 - 2010 đã liền kề, vấn đề ở đây không chỉ là việc “chạy nước rút” đạt được số lượng, mà quan trọng hơn là chất lượng, để người dân nông thôn, trong đó có phụ nữ được thụ hưởng thực sự những lợi ích từ chương trình này./.
* Bài viết theo sự phối hợp của Tạp chí Cộng sản với Cục Y tế dự phòng và Môi trường, Bộ Y tế
Diễn văn của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng khai mạc kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khóa XII  (20/10/2009)
Khai mạc trọng thể Kỳ họp thứ sáu, Quốc hội Khóa XII  (20/10/2009)
Ðoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam tham dự Ðại hội đồng IPU lần thứ 121  (20/10/2009)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm