Môi trường biển thách thức cư dân biển
Báo động đỏ về ô nhiễm môi trường biển
Vấn đề gia tăng các tác động nhân sinh lên hệ sinh thái biển dẫn đến hậu quả ô nhiễm môi trường biển ngày càng nặng nề. Con người, nhất là cư dân biển phải đối mặt với những thách thức của môi trường biển. Đây không phải là vấn đề mới, trái lại, nó đã được cảnh báo từ nhiều thập kỷ qua. Ô nhiễm môi trường biển đã đạt tới quy mô địa phương, khu vực và thậm chí toàn cầu và trở thành một vấn đề quốc tế quan trọng nhất được bàn thảo, xem xét tại nhiều diễn đàn quan trọng. Bởi vì hệ lụy của việc ô nhiễm môi trường biển dẫn đến những hậu quả tai hại như thiệt hại tài nguyên sinh vật, nguy hiểm với sức khỏe con người làm cho chất lượng dân số diễn biến theo chiều hướng xấu, gây khó khăn cho hoạt động trên biển, làm suy thoái chất lượng và tính hữu ích của nước biển… Theo một tính toán, có đến 23 chất độc hại làm ô nhiễm biển và danh mục này không dừng lại trên thực tế(1).
Các chất ô nhiễm biển xuất phát từ nhiều nguồn: nước thải công nghiệp xả trực tiếp hoặc hòa lẫn từ các dòng sông trong nội địa, nguồn dư lượng chất từ sản xuất nông nghiệp và nghề rừng, khai thác khoáng sản dưới đáy biển và ven bờ, nguồn từ các hoạt động vận tải thủy và sự cố phát thải do tàu và quá trình vận chuyển dầu, hóa chất và các loại chế phẩm không có lợi cho môi trường trên biển. Ngay như vấn đề ô nhiễm do nước ballast mà hằng năm, các loại tàu biển đã chuyển khoảng 10 tỉ tấn nước ballast (nước dằn tàu) giữa các vùng trên thế giới. Nước ballast giúp cho tàu cân bằng. Điều đáng quan tâm là trong nước này chứa hàng ngàn loại vi khuẩn sinh vật biển, nang, ấu trùng của nhiều loại sinh vật khác di chuyển trong hành trình của tàu giữa các đại dương. Các loài sinh vật không mong muốn này sẽ gây ra ảnh hưởng xấu đến đời sống của môi trường biển tại nơi tàu đến(2). Ngoài ra còn có rất nhiều hợp chất hữu cơ, chất thải nhà máy có hàm lượng BOD cao, các phần tử lơ lửng, bằng những con đường khác nhau đi vào đại dương mà quy mô phân bố từ các vùng ven bờ ra đến biển.
Vài nét cận cảnh ô nhiễm môi trường biển Việt Nam
1. Cảng biển đang đem lại nguồn lợi lớn cho nền kinh tế. Hằng năm số lượng tàu thuyền đến các cảng biển Việt Nam tăng cao cả về số lượng tàu và khối lượng hàng hóa thông qua.
Hệ thống cảng biển Việt Nam hiện có 91 cảng với tổng chiều dài tuyến bến trên 37km, hơn 160 bến phao, 300 cầu cảng. Tốc độ xây dựng bến cảng mỗi năm tăng trung bình 6%, tương ứng tăng thêm 2km cầu cảng và lượng hàng hoá qua bến cảng tăng 15%. Nhưng chúng ta chưa có cảng nước sâu để nhận hàng ở tàu trọng tải cỡ lớn, thiết bị chuyên dùng ít, mạng lưới giao thông và kết cấu hạ tầng chưa đạt tiêu chuẩn cảng Quốc tế.
Việc xây dựng thêm nhiều bến cảng trong một thời gian ngắn, thiếu đồng bộ đã dẫn đến hậu quả là hầu hết các hoạt động của cảng đều tác động tiêu cực đến sinh thái và môi trường sinh cư, ô nhiễm nước, không khí, và đất xung quanh khu vực cảng. Có rất nhiều thí dụ về vấn đề này: Khi nạo vét luồng để xây dựng cảng Cái Lân ( Quảng Ninh) đã chạm qua vịnh Hạ Long, tác động xấu tới hệ sinh thái đáy biển. Các công trình khu vực cảng đã làm cho 359 ha rừng ngập mặn và 47 ha bãi biển, hàng chục ha cỏ biển bị phá hủy. Khi nạo vét cảng Đà Nẵng đã làm suy thoái nặng nề rạn san hô ở vùng này.
Tràn dầu ở khu vực cảng là hiện tượng thường xuyên đe doạ môi trường. Cụ thể như cảng Hải Phòng, từ năm 1994-1996 có tới 22 vụ tràn dầu. Ngoài ra lượng dầu cặn, phế thải hàng hóa, phế thải sinh hoạt, nước rửa tàu lẫn chất thải rắn, mạt kim loại, sơn và các chất tẩy rửa trong quá trình hoạt động bị thải trực tiếp từ tàu sau mỗi hành trình làm cho không một bến cảng nào tránh khỏi sự ô nhiễm. Như cảng Hải Phòng, với hơn mười nghìn lượt tàu cặp bến mỗi năm đã thải xuống biển hàng nghìn mét khối dầu cặn. Nồng độ dầu ở tất cả các cảng đều vượt mức cho phép: cảng Hải Phòng 0,42mg/l; cảng Cái Lân 0,6mg/l; cảng Vũng Tàu 0,52mg/l; cảng Việtxô Pêtrô 7,57mg/l. Ở một số cảng, hàm lượng thuỷ ngân đã vượt ngưỡng cho phép: cảng Vũng Tàu vượt 3,1lần; cảng Nha Trang vượt 1,1lần. Môi trường trầm tích biển, ô nhiễm không khí đều ở mức “báo động đỏ”.
2. Vùng sinh kế của cư dân biển. Đường bờ biển Việt Nam dài 3.260 km, vùng cư dân biển và ven biển có diện tích khoảng hơn 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền. Theo số liệu Tổng điều tra dân số năm 2004, có khoảng 29,2 triệu người sinh sống thuộc 28 tỉnh, thành phố, thị xã, cư dân biển chiếm 34,6% dân số cả nước. Mật độ cư trú 373 người/km2, gấp gần 1,5 lần mật độ chung cả nước. Số người trong độ tuổi lao động chiếm tới 35,5% lực lương lao động của quốc gia. Vì vậy, giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến sự sinh kế và phát triển cho cư dân vùng biển là một yêu cầu mang tính chiến lược. Trong quá khứ lịch sử, vùng biển và ven biển nước ta là nơi rất thuận lợi cho việc khai thác, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản, làm nông, lập làng và tụ cư. Tuy nhiên, trước sức ép gia tăng dân số, sức ép về phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển các khu công nghiệp ven bờ trên lộ trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa…, nhiều nguyên nhân tiềm ẩn và mới phát sinh đã làm cho môi trường sinh kế của cư dân vùng biển chịu nhiều thách thức cần phải vượt qua. Nguồn lợi thủy hải sản ven bờ đang cạn kiệt nhanh chóng; rừng ngập mặn bị thu hẹp. Xu hướng quần thể của nhiều loài động vật cũng đang suy giảm, ngày càng có nhiều loài đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Có khoảng 85 loài hải sản có mức độ nguy cấp khác nhau, trong đó trên 70 loài đã được đưa vào sách đỏ Việt Nam; đất và nước ngọt bị nhiễm độc, nhiễm mặn; chất lượng dân số có chiều hướng suy giảm do phát sinh nhiều tật bệnh, nhất là các bà mẹ và trẻ em.
Tại Thái Bình, báo cáo tổng hợp đánh giá hiện trạng môi trường khu công nghiệp khí mỏ Tiền Hải, nồng độ khí thải CO, SO2, NH3, bụi và độ ồn đều vượt tiêu chuẩn cho phép; nước thải tại một số điểm thải từ khu công nghiệp có các thông số SS, COD, BOD5, coliform vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,2 - 10 lần. Hàm lượng các chất ô nhiễm trong nguồn nước tiếp nhận nước thải tại các sông Long Hầu, Kiên Giang các thông số trên đều vượt chuẩn cho phép từ 3 - 6 lần. Hoạt động sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản thâm canh và bán thâm canh hằng năm cũng thải ra các cửa sông hàm lượng kim loại nặng và dư lượng hoá chất bảo vệ thực vật và phân bón hóa học, dư lượng thức ăn ra các cửa sông, vùng ven biển làm cho nồng độ độc hại tại những nơi này luôn cao hơn các vùng biển khác.
Khu vực cảng cá Tân Sơn (Thái Thụy) và một số cảng cá khác ven biển hay như bãi biển du lịch Đồng Châu, Cồn Vành xuất hiện môi trường ô nhiễm nặng lại ở dạng khác do chất thải sản xuất và sinh hoạt đã làm cho hàm lượng các chất hữu cơ, chất dinh dưỡng, coliform tăng, nguy cơ dịch bệnh lớn.
Ven biển miền Trung, hiện tượng đục hóa vùng bờ, thủy triều đỏ ở Đà Nẵng, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận…đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động du lịch và làm cho nhiều loài tôm, cá, san hô, rong cỏ biển bản địa bị chết, báo động về nguồn lợi thủy hải sản và sinh kế của người dân vốn sống bằng nghề biển và hoạt động dịch vụ biển.
Những bất thường biển đem đến “vạ gió tai bay” cho cư dân biển những năm gần đây không còn hiếm thấy. Mới đây, tại xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình do triều cường sóng dữ đã làm sạt lở sập hàng chục ngôi nhà dân khiến 50 hộ dân phải di dời khẩn cấp. Triều cường kéo dài, nạn sạt lở vẫn tiếp diễn tiếp tục đe dọa hơn 700 hộ dân khác trong xã.
Bức tranh về chất lượng dân số cư dân biển
Trước những thách thức của môi trường sinh kế, vấn đề chất lượng dân số cho cư dân vùng biển, đảo đang là bài toán không dễ dàng, trước hết là đối với những người làm công tác DS - KHHGĐ. Nó là trách nhiệm của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, nhất là cấp ủy và chính quyền của 28 tỉnh, thành phố biển, đảo và ven biển. Những suy thoái về môi trường sống và mưu sinh vùng biển, đảo đặt ra khó khăn và thách thức cho các bà mẹ và trẻ em, đối tượng cần kiểm soát, trợ giúp đầu tiên từ cơ sở của Đề án Kiểm soát dân số đến năm 2020 (Đề án 52). Để nâng cao chất lượng dân số khi sinh và thỏa mãn các điều kiện chăm sóc sức khỏe các bà mẹ, trẻ em, thực hiện KHHGĐ, thì việc điều tra, hỗ trợ phòng chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục, phòng ngừa mang thai ngoài ý muốn và phá thai được an toàn lại như là chiếc “chìa khóa” để mở ra cửa kiểm soát đầu tiên. Riêng số liệu năm 2010 ở một số địa phương triển khai Đề án 52 đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (khoảng trên, dưới 30% dân số; đồng thời cũng là lực lượng lao động quan trọng) cần chữa bệnh phụ khoa và bệnh lây nhiễm chiếm tỷ lệ khá cao: các huyện, xã đảo ở Quảng Ninh hơn 40%; Hải Phòng có 54.566 phụ nữ cần được tư vấn và chữa bệnh phụ khoa/ tổng số 303.624 người dân trong diện kiểm soát của Đề án 52. Kiểm soát 287 bà mẹ đang mang thai ở 5 xã thuộc huyện Thái Thụy, Thái Bình thì 22 người mắc nguy cơ cao. Tại 4 xã của huyện Quảng Ninh, Quảng Bình, trong số 1.400 phụ nữ được khám, đã phát hiện 600 người mắc các bệnh liên quan tới đường tình dục nên các Đội công tác của Đề án đã hỗ trợ làm các test xét nghiệm soi tươi. Tại Khánh Hòa, đến giữa năm 2010, khám bệnh cho 8.772 phụ nữ thì có tới 6.604 người mắc bệnh đường sinh sản Chương trình của Đề án 52 hỗ trợ cấp thuốc chữa. ở Cà Mau, 21.674 phụ nữ được thăm khám, có 13.368 người mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục…
Qua một vài số liệu cho thấy điều kiện sống trong môi trường ven biển khắc nghiệt và lao động nặng nhọc, thiếu sự hỗ trợ và tư vấn tích cực, tỷ lệ các bà mẹ, nói chung và phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, nói riêng mắc các bệnh phụ khoa, bệnh lây truyền qua đường tình dục rất cao. Các nguy cơ sinh đẻ không an toàn, không được đẻ sạch và trẻ bị dị tật, thiểu năng cao hơn nhiều so với các vùng khác.
(1) Gồm có:1. Nuclit phóng xạ; 2. 90Sr; 3. 137Cs; 4. 238Pu; 5. 3H; 6. 144Ce; 7. Hợp chất clo có độc tính; 8. DDT và các biến thể; 9. Policlorbifenil (PCB); 10. Aldrin; 11. Dildrin; 12. Linđan; 13. Kim loại; 14. Methyl thủy ngân; 15. Cađimi; 16. Thủy ngân; 17. Chì; 18. Đồng; 19. Kẽm; 20. Crôm; 21; Mangan; 22. Asen; 23. Dầu mỏ và sản phẩm dầu
(2) Theo lộ trình của Tổ chức Hàng hải thế giới (IMO), đến năm 2012 hệ thống xử lí nước ballast phải lắp đặt cho tất cả các tàu đóng mới và năm 2017 mới bắt buộc tòan bộ tàu thủy phải lắp đặt và vận hành hệ thống này.
Mục lục Tạp chí Cộng sản số 818 (12-2010)  (16/12/2010)
Một số mô hình đào tạo nghề cho lao động nông thôn  (16/12/2010)
Việt Nam chuyển giao chức Chủ tịch CPR cho In-đô-nê-xia  (16/12/2010)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm