Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Phạm Tất Thắng, TS, Phó Tổng Biên tập Thường trực Tạp Chí Cộng sản Nguyễn Linh Khiếu, PGS, TS, Ủy viên Ban Biên tập Tạp chí Cộng sản
23:57, ngày 13-02-2015

TCCS - Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là những vấn đề lý luận cốt yếu, được giới lý luận nước ta thường xuyên quan tâm trong suốt mấy chục năm qua. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đến nay. Tuy nhiên, đó là con đường phát triển lâu dài và trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ phát triển đất nước, đường lối chiến lược phát triển đó của Đảng ta luôn được bổ sung, hoàn thiện và phát triển đáp ứng những yêu cầu mới của thời đại.

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một vấn đề lý luận căn bản đã được C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin đề cập một cách sâu sắc trong các tác phẩm của mình. Trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gô-ta, C. Mác khẳng định, giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị(1). Như thế, thời kỳ quá độ thường được hiểu là thời kỳ chuyển biến từ trạng thái xã hội cũ sang trạng thái xã hội mới. Ở đây là chuyển từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Trong các tác phẩm của mình, C. Mác và Ph. Ăng-ghen, khẳng định thời kỳ quá độ là một tất yếu lịch sử cũng giống như các thời kỳ quá độ từ chế độ cộng sản nguyên thủy lên chế độ chiếm hữu nô lệ, từ chế độ chiếm hữu nô lệ lên chế độ phong kiến và từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản chủ nghĩa đã từng diễn ra. Hơn thế, các ông cũng khẳng định, thời kỳ quá độ diễn ra một cách lâu dài - và độ dài ngắn của thời kỳ quá độ ở mỗi nước phụ thuộc vào xuất phát điểm của các dân tộc cụ thể khi bước vào thời kỳ quá độ, cũng như những nhân tố tác động khách quan của thời đại. Theo các ông, thời kỳ quá độ bao giờ cũng diễn ra với nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó chủ nghĩa xã hội được xem là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản.

Sau này, trên cơ sở những dự báo của C. Mác, Ph. Ăng-ghen, và từ thực tiễn sự phát triển của chế độ công xã ở Nga và kết cấu xã hội cổ truyền ở Ấn Độ, với bối cảnh chủ nghĩa tư bản thế giới phát triển đến giai đoạn cực đoan của nó và những thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đầu thế kỷ XX, V.I. Lê-nin đã đi đến những kết luận lý luận mang tính cách mạng dẫn đến sự thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện thực ở thế kỷ XX. Cách mạng Tháng Mười Nga đã làm thay đổi lịch sử nhân loại và biến thế kỷ XX trở thành thế kỷ của chủ nghĩa xã hội.

Về mặt lý luận từ các tác phẩm của các nhà kinh điển, có thể thấy, về thời kỳ quá độ, có 3 cách hiểu: 1- Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản; 2- Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; và, 3: Thời kỳ quá độ từ xã hội tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Thực ra, đối với các nhà kinh điển, chủ nghĩa xã hội chỉ là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, chỉ là có hai cách quá độ lên chủ nghĩa xã hội: 1- Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội - đó được xem là sự quá độ trực tiếp; 2- Từ xã hội tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội - đó được xem là sự quá độ gián tiếp.

Tuy nhiên, dù gián tiếp hay trực tiếp thì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đều là tất yếu khách quan và đều là một thời kỳ lâu dài với nhiều con đường, bước đi với những nội dung, tính chất và đặc thù khác nhau. Dù phải trải qua nhiều bước ngoặt, nhiều thăng trầm với liên tục và đứt đoạn, quanh co, khúc khuỷu, nhưng đó đều là sự phát triển, tiến bộ đi lên của lịch sử nhân loại.

Lý luận về bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa

Với học thuyết hình thái - kinh tế xã hội, C. Mác và Ph. Ăng-ghen xem xét sự phát triển xã hội loài người là một tiến trình lịch sử - tự nhiên. Tiến trình ấy, theo các ông, đã phát triển trải qua các chế độ: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và tất yếu sẽ tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Đúng như Đảng ta khẳng định, theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội (2). Đó là một tất yếu lịch sử. Điều này có nghĩa, chủ nghĩa tư bản chỉ là một giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại cũng giống như các giai đoạn phát triển trước nó (cộng sản nguyên thủy, chiến hữu nô lệ, phong kiến) mà nhân loại đã từng trải qua.

Nhìn một cách tổng quát, toàn bộ quá trình phát triển của xã hội loài người mấy nghìn năm qua cho thấy, lịch sử không phải bao giờ cũng vận động theo đường thẳng mà để tiến lên, lịch sử thường vận động theo những con đường quanh co, dích dắc; con đường phát triển của lịch sử không phải bao giờ cũng thẳng tiến mà nhiều khi chững lại, thậm chí thụt lùi; sự vận động của lịch sử không phải bao giờ cũng liên tục mà nhiều khi đứt đoạn; không phải bao giờ cũng tuần tự, tiệm tiến mà nhiều khi đột biến, nhảy vọt... Đó là hiện thực lịch sử nhân loại đã từng diễn ra, mà đã là hiện thực lịch sử thì đương nhiên đó là quá trình diễn tiến một cách tất yếu khách quan vừa bao hàm tính phổ biến, vừa bao hàm tính đặc thù theo một tiến trình lịch sử - tự nhiên. Mọi hiện tượng lịch sử đều là kết quả hội tụ tất yếu của tất cả các yếu tố và điều kiện lịch sử trong những hoàn cảnh nhất định. Bởi lẽ, cái tất nhiên bao giờ cũng xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên.

Mặc dù chỉ ra một cách sâu sắc sự thay thế nhau liên tục của các hình thái kinh tế - xã hội như một tiến trình lịch sử - tự nhiên, nhưng C. Mác và Ph. Ăng-ghen, cũng đã dự báo khả năng bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đối với một số nước trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Thật vậy, trong Lời tựa cho Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (viết cho bản tiếng Nga năm 1882), C. Mác nói rằng: “Bây giờ, thử hỏi công xã Nga, các hình thức thật ra đã bị phá hoại ghê gớm ấy của chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy, có thể chuyển thẳng sang hình thức cao, hình thức công hữu cộng sản chủ nghĩa được không? Hay là, trái lại, trước hết nó cũng phải trải qua cái quá trình tan rã giống như quá trình mà tiến trình lịch sử của phương Tây phải trải qua?

Ngày nay, lời giải đáp duy nhất có thể có được cho câu hỏi ấy là thế này: nếu cách mạng Nga là tín hiệu của cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây và nếu cả hai cuộc cách mạng ấy bổ sung cho nhau thì chế độ sở hữu công xã về ruộng đất ở Nga hiện nay có thể là điểm xuất phát của một sự tiến triển cộng sản chủ nghĩa”(3).

Ph. Ăng-ghen trong tác phẩm Sách báo của giới lưu vong khẳng định rằng: “Liệu sở hữu công xã có thể dùng làm điểm xuất phát của một hoạt động dân tộc bỏ qua toàn bộ thời kỳ tư bản chủ nghĩa để lập tức biến chủ nghĩa cộng sản nông dân Nga thành chế độ sở hữu công cộng xã hội chủ nghĩa hiện đại về mặt tư liệu sản xuất..., được hay không?... Thắng lợi của giai cấp vô sản Tây Âu đối với giai cấp tư sản và gắn liền với điều đó, việc thay thế nền sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng nền sản xuất do xã hội quản lý, - đó là điều kiện tiên quyết tất yếu để nâng công xã lên cùng một trình độ phát triển như vậy”(4). Ph. Ăng-ghen khẳng định: “Nhưng một điều kiện tất yếu để làm được việc đó là tấm gương và sự ủng hộ tích cực của phương Tây cho tới nay vẫn còn là tư bản chủ nghĩa. Chỉ khi nào nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã bị đánh bại tại quê hương của nó và ở những nước nó đã phát đạt, chỉ khi nào những nước lạc hậu qua tấm gương ấy mà biết được rằng “việc đó đã được tiến hành như thế nào”, những lực lượng sản xuất công nghiệp hiện đại, với tư cách là sở hữu công cộng, đã được sử dụng như thế nào để phục vụ toàn thể xã hội, - thì những nước lạc hậu ấy mới có thể bước vào con đường phát triển rút ngắn như vậy. Như thế thắng lợi của những nước ấy sẽ được bảo đảm. Và điều đó không chỉ đúng với nước Nga, mà với tất cả các nước đang ở trong giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ nghĩa”(5).


Phát triển tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin khẳng định: “Xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ phải chuyển biến thành xã hội xã hội chủ nghĩa”(6). Tiếp tục tư tưởng về sự phát triển của các nước tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội, V.I. Lê-nin nêu rõ: “Vấn đề đặt ra như thế này: đối với các dân tộc lạc hậu hiện nay đang trên con đường giải phóng và sau chiến tranh đã có một bước tiến bộ, mà khẳng định rằng nền kinh tế quốc dân của những dân tộc đó nhất định phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta có cho như vậy là đúng hay không? Chúng tôi cho rằng không đúng... Quốc tế cộng sản còn phải xác định và chứng minh trên lý luận cho một nguyên tắc đó là: với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô-viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”(7).

Như vậy, có thể thấy, theo C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin, một cách chung nhất, điều kiện tiên quyết để “các xã hội tiền tư bản”, “những nước lạc hậu” “tiến tới chủ nghĩa cộng sản” là: 1) cách mạng vô sản đã thành công ở những nước tư bản phát triển nhất và kết hợp với cách mạng của các nước lạc hậu; 2) phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bị đánh bại ở chính “quê hương của nó” và những nơi nó phát triển nhất; 3) phương thức sản xuất mới đã hình thành và nêu một tấm gương về xây dựng và quản lý xã hội; 4) các nước lạc hậu đang tồn tại các quan hệ xã hội công xã có nhiều nét tương đồng với các quan hệ trong chế độ cộng sản chủ nghĩa; và, 5) các lực lượng tiến tiên (giai cấp công nhân và đảng của giai cấp công nhân) trong các "nước lạc hậu" này chủ động tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Qua các tác phẩm của C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin cho thấy, các ông đã dùng các cụm từ “bỏ qua toàn bộ thời kỳ tư bản chủ nghĩa để lập tức biến chủ nghĩa cộng sản nông dân Nga thành chế độ sở hữu công cộng xã hội chủ nghĩa hiện đại”, hay “những nước lạc hậu mới có thể bước vào con đường phát triển rút ngắn” và “không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” để nói về “những nước lạc hậu” tiến lên chủ nghĩa xã hội trong khi chưa phát triển tư bản chủ nghĩa. Đáng chú ý là các tư tưởng: 1- “bỏ qua toàn bộ thời kỳ tư bản chủ nghĩa”; 2- “không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”; 3- “con đường phát triển rút ngắn”. Ở đây tư tưởng thứ nhất và thứ hai có cùng một cách tiếp cận và mang cùng một nội dung, còn tư tưởng thứ ba có cách tiếp cận khác và cũng mang những nội dung khác. “Thời kỳ tư bản chủ nghĩa” hay “giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” hiện diện với tư cách là một hình thái kinh - tế xã hội trong chuỗi vận động và phát triển liên tục của lịch sử. Vì vậy, nói “bỏ qua” hay “không phải trải qua” nghĩa là bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Còn “con đường phát triển rút ngắn” nghĩa là sự phát triển không bỏ qua hoàn toàn hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa với tư cách là một hình thái kinh tê ́ - xã hội, mà đó là sự phát triển có chọn lọc, kế thừa, có điều chỉnh và định hướng các thành tố phát triển, các động lực phát triển và xu hướng phát triển theo những yếu tố của thời đại qui định và theo sự mong muốn, theo chiến lược, mục tiêu phát triển của từng quốc gia cụ thể. Dĩ nhiên, “con đường phát triển rút ngắn” cũng bao hàm trong nó sự phát triển bỏ qua những nhân tố, những bộ phận, những tiến trình không còn phù hợp trong thời đại mới.

Vấn đề cần lưu tâm ở đây là, “Bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa” hay “không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” đều là nói tới một hình thái kinh tế - xã hội - một giai đoạn trong chuỗi phát triển tất yếu của tiến trình vận động mang tính lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người. Liệu trong quá trình phát triển của một quốc gia nào đó, ở một trạng thái phát triển nào đó, vào một thời điểm nào đó có thể có sự đột biến, nhảy vọt để bỏ qua một giai đoạn phát triển với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội được hay không? Đây là một vấn đề rất căn bản mà thời gian qua không ít nhà khoa học đã không quan tâm. Về điều này, C. Mác có lần khẳng định: “Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho sự phát triển vẫn còn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, không bao giờ xuất hiện khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó còn chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ”(8).

Như vậy, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội thấm nhuần trong sự phân tích các hiện tượng xã hội của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Điều này cũng khẳng định ý nghĩa phương pháp luận đặc biệt trong nhận thức xã hội của học thuyết này. Rõ ràng, để một xã hội tiền tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội như các ông đã chỉ ra, thì tư tưởng về “con đường phát triển rút ngắn” tỏ ra thuyết phục hơn so với con đường “bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa” và “không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Vấn đề phát triển rút ngắn có thể phù hợp với sự đa dạng, phong phú, khác biệt về điểm xuất phát của các quốc gia khác nhau, chính nó tạo ra sự độc đáo của các quốc gia trong quá trình lên chủ nghĩa xã hội. Thế nhưng, rút ngắn là như thế nào, cái gì có thể rút ngắn và rút ngắn bao nhiêu thì hợp lý là những vấn đề không hề đơn giản.

Lý luận của Đảng ta về bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa

Vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện lịch sử của cách mạng Việt Nam, từ khi thành lập Đảng đến nay Đảng ta luôn kiên định lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều này càng được thể hiện rõ hơn qua bốn thời điểm mang tính chất bước ngoặt lịch sử cách mạng Việt Nam.

Thứ nhất, trong Chính cương văn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo khi thành lập Đảng (năm 1930), Đảng ta đã khẳng định: Đảng chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.

Thứ hai, sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, tại Đại hội III (năm 1960), Đảng ta khẳng định “đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”.

Thứ ba, khi cả nước thống nhất, tại Đại hội IV (năm 1976) Đảng ta khẳng định: thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; và, Đảng ta xác định, dù chúng ta vừa bước qua một cuộc chiến tranh tàn khốc, dù xuất phát điểm của chúng ta là nền kinh tế còn phổ biến là nền sản xuất nhỏ, song con đường của cách mạng Việt Nam vào thời điểm đó là: “tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.

Thứ tư, trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và Đông Âu tan rã, phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới khủng hoảng, tại Đại hội VII (năm 1991) với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng định: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta... Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất nước và thế giới như trên, chúng ta phải nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Có thể nói đó là bốn thời điểm mang tính chất bước ngoặt trong quá trình cách mạng Việt Nam 85 năm qua. Sự lựa chọn của Đảng Cộng sản Việt Nam tại các thời điểm bước ngoặt này cho thấy, Đảng ta luôn luôn kiên định con đường đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sự kiên định ấy thực chất chính là sự nhất quán lý tưởng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Dù bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán, không dao động, luôn kiên trì đường lối xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đường lối tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta cũng thường xuyên được điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp tiến trình phát triển và điều kiện lịch sử nhất định của thời đại. Thật vậy, với Chánh cương văn tắt (năm 1930) Đảng ta mới chỉ vạch ra một cách chung chung con đường để đưa đất nước đi tới xã hội cộng sản; tại Đại hội III (năm 1960), Đảng xác định cách mạng nước ta đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: giải phóng miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Và, Đảng ta khẳng định: đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; Đến Đại hội IV (năm 1976), Đảng ta xác định đưa cả nước tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; nhưng đến Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta khẳng định: từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài là một tất yếu khách quan. Thời kỳ quá độ ở nước ta do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Và, đến Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta khẳng định: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đến các Đại hội VIII, IX, X mặc dù có nhiều sự bổ sung và điều chỉnh, nhưng nhìn chung, về cơ bản Đảng ta đều nhất quán với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII thông qua (Cương lĩnh 1991). Tại Đại hội XI, trên cơ sở bổ sung và hoàn thiện Cương lĩnh 1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã có một bước hoàn thiện mới với sự khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(9).

Từ quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng ta 85 năm qua, có thể nhận thấy rằng:

1- Mục tiêu xã hội chủ nghĩa của Đảng ta là kiên định nhưng ngày càng được Đảng ta nhận thức sâu sắc, đầy đủ và cụ thể hơn.

2- Có sự điều chỉnh và hoàn thiện căn bản con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: từ làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản, đến quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” và hiện nay là quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Rõ ràng, giai đoạn tư bản chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn khác nhau.

3- Hình thức đi lên chủ nghĩa xã hội là từ “tiến nhanh”, “tiến mạnh”, “tiến vững chắc”, “tiến thẳng” lên chủ nghĩa xã hội (Đại hội III và IV) đến có một “thời kỳ quá độ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” với các “bước đi”, “chặng đường” phù hợp và với thời gian “lâu dài”.

4- Với từ sự giúp đỡ của các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa và các lực lượng tiến bộ trên thế giới đến “tự lực tự cường”, “quan hệ hữu nghị”, “là bạn và là đối tác tin cậy” của tất cả các nước nhằm phát huy và khai thác, tận dụng các cơ hội, lực lượng và nguồn lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội...

Như vậy, có thể khẳng định, mặc dù kiên định con đường xã hội chủ nghĩa nhưng về mặt nhận thức và lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta qua các thời kỳ lịch sử, mặc dù nhất quán mục tiêu nhưng đã có sự thay đổi hết sức căn bản. Sự thay đổi này vừa là sự đổi mới nhận thức về lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là thành quả tất yếu của sự tác động tích cực của thời đại. Những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội của gần 30 năm đổi mới toàn diện đất nước đã khẳng định sự đúng đắn, tính kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; đồng thời, cũng khẳng định những thành quả bổ sung và hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong thời đại ngày nay.

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra hiện nay

Sự phát triển mạnh mẽ của đất nước sau gần 30 năm đổi mới là minh chứng cho những thành tựu lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta. Tuy nhiên, khi đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới, khi chủ nghĩa xã hội thế giới vẫn đang ở thời kỳ thoái trào, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển hết sức mạnh mẽ, khi toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng thấm sâu vào đời sống mọi quốc gia thì vấn đề lựa chọn con đường phát triển và xây dựng mô hình, chiến lược phát triển phù hợp với điều kiện mới bao giờ cũng đặt ra đối với mọi quốc gia. Trong vòng xoay của thời đại ấy, Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một thành tựu lý luận đặc sắc của Đảng ta đã được thực tiễn đổi mới khẳng định. Mặc dù vậy, khi nghiên cứu trao đổi về những vấn đề lý luận xung quanh chủ đề này dù đa số các học giả, các nhà lý luận đều khẳng định và góp phần làm sâu sắc thêm thành tựu lý luận này trong bối cảnh mới, nhưng vẫn có không ít ý kiến băn khoăn, nêu ý kiến, giả thuyết nhằm góp phần tìm kiếm những sáng kiến mới, những luận giải mới về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay đặt trong bối cảnh thời đại ngày nay.

Thứ nhất, về xuất phát điểm và những điều kiện tiên quyết của sự quá độ. Với đặc điểm của mình, rõ ràng nước ta bước vào thời kỳ quá độ với điểm xuất phát được trước đây xác định là từ xã hội "thuộc địa, nửa phong kiến" nghĩa là từ xã hội tiền tư bản chủ nghĩa, thế nhưng vào thời điểm hiện nay, khi sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt tới nhóm các nước có thu nhập trung bình, với sự tham gia tích cực vào quá trình sản xuất, phân phối và phân công lao động toàn cầu như hiện nay, với sự tham gia có trách nhiệm và thể hiện đầy đủ các vai trò của mình trong các tổ chức và thể chế quốc tế thời gian qua thì rõ ràng xuất phát điểm của chúng ta đã khác. Do đó, cần có sự nhận diện và xác định đúng điểm xuất phát mới phù hợp hơn.

Những điều kiện tiên quyết như các nhà kinh điển đã nêu ra đối với các nước “lạc hậu”, “tiền tư bản chủ nghĩa” để tiến lên chủ nghĩa xã hội đến nay hầu như không còn nữa. Vậy, những nhân tố nào trong thời đại ngày nay là những điều kiện tiên quyết để các nước có xuất phát điểm thấp thực hiện thành công bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội? Không ít ý kiến cho rằng, trong bối cảnh hiện nay việc nhìn nhận về quá độ lên chủ nghĩa xã hội của các nước chưa kinh qua tư bản chủ nghĩa không nên đặt trong mối tương quan đối lập giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội như quan niệm trước đây. Bởi lẽ, về mặt phương pháp luận quan niệm trước đây cho rằng, đấu tranh giữa các mặt đối lập bao giờ cũng dẫn đến sự phủ định, triệt tiêu mặt đối lập; trong khi thực ra đấu tranh giữa các mặt đối lập bao giờ cũng bao hàm sự chuyển hóa lẫn nhau. Thay vì đối lập thủ tiêu theo quan niệm trước đây, đối lập chuyển hóa sẽ tạo ra sự phát triển mới phù hợp với thời đại mới.

Thứ hai, về thời kỳ quá độ. Đây là thuật ngữ đã quen thuộc mấy chục năm qua, nhưng có một số ý kiến cho rằng, quá độ là trạng thái phổ biến của sự vận động và phát triển của thế giới. Mọi sự vật và hiện tượng luôn luôn tồn tại và vận động trong một trạng thái quá độ nào đó. Vì vậy, gọi là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là rất chung chung, trừu tượng, rất khó xác định, dễ gây nhầm lẫn. Bởi bản thân “chủ nghĩa tư bản” hay “chủ nghĩa xã hội” cũng chỉ là một thời kỳ quá độ cho sự phát triển tiếp theo. Hơn thế, bản thân C. Mác, trong Phê phán Cương lĩnh Gô-ta, ở câu trích đã nêu ở trên, thường vẫn được coi là định nghĩa về thời kỳ quá độ cũng chỉ đề cập tới “thời kỳ quá độ chính trị” chứ không gọi “thời kỳ cải biến cách mạng” ấy là thời kỳ quá độ.

Trong các ý kiến trao đổi, có các ý kiến đề xuất nên dùng khái niệm: “giai đoạn phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa” hay “thời kỳ phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bởi như thế mới đề cao mục tiêu của sự phát triển. Chính mục tiêu sẽ quy định lực lượng, phương thức, động lực, nội dung, tính chất của quá trình phát triển hướng tới mục tiêu. Theo những ý kiến này, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một thành tựu to lớn của thời kỳ đổi mới.

Thứ ba, vấn đề phù hợp giữa kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong thời kỳ quá độ. Đây cũng là một vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà lý luận nghiên cứu về thời kỳ quá độ. Theo các tác giả, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta, rõ ràng là thời kỳ nước ta chưa phải là chủ nghĩa xã hội, dĩ nhiên, thời kỳ ấy cũng không còn là một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Vấn đề đặt ra là trong thời kỳ này, theo cách nói quen thuộc, tất cả kinh tế - xã hội đều ở trạng thái quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo các đề xuất nêu trên, tất cả kinh tế - xã hội đều trong trạng thái phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có một thực tế là, cho đến nay, chúng ta mới thừa nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn các lĩnh vực khác, như chính trị, văn hóa, xã hội... thì hoặc là chúng ta xác định đó là xã hội chủ nghĩa, hoặc chúng ta không xác định cụ thể. Rõ ràng, nhìn nhận một cách tổng thể thì chưa thấy được sự tương đồng và thống nhất giữa các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội đất nước. Ở đây, hình như chưa có sự thống nhất về nhận thức và sự nhất quán về lý luận. Vấn đề đặt ra là, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nghĩa là thời kỳ chuyển tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, thực chất đó là thời kỳ phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta chỉ cần làm rõ định hướng kinh tế - kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hay còn cần phải làm rõ định hướng sự phát triển cho mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội? Theo một số tác giả, đây là một vấn đề còn bỏ ngỏ.

Trên đây, chỉ là một số ý kiến thảo luận, đề xuất của một số nhà nghiên cứu trong thời gian qua nhằm thiết thực góp phần từng bước hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Những ý kiến thảo luận này mặc dù chưa thành hệ thống, nhưng cũng là những gợi ý cho những suy nghĩ lý luận tiếp theo./.

---------------------------------------------

(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1983, t. 19, tr. 47

(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, 2011, tr. 69

(3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, t. 19, tr. 434

(4), (5) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, t. 22, tr. 628 - 630, 632

(6) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, t. 26, tr. 86

(7) V.I. Lê-nin: Sđd, t. 41, tr. 295

(8) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, t. 13, tr. 15 - 16

(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 70