TCCS - Một triệu nông dân sẽ được đào tạo mỗi năm, phần lớn trong số họ sẽ có việc làm. Đó là trọng trách và quyết tâm lớn của Đảng, Chính phủ trong việc nâng cao đời sống của người nông dân, dù chiếm đa số trong xã hội, song đời sống vẫn còn nhiều khó khăn.

Đề án hợp lòng dân

Thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-TW về nông nghiệp, nông dân và nông thôn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg, ngày 27-11-2009, phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” (gọi tắt là Đề án 1956). Trong Quyết định này, nội dung chủ đạo là: “Nhà nước tăng cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn, có chính sách bảo đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với mọi lao động nông thôn, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia đào tạo...”. Đề án 1956 đề ra mục tiêu tổng quát: “Bình quân hằng năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao động nông thôn, trong đó có 100.000 lượt cán bộ, công chức xã”.

Tư tưởng bao trùm của Đề án 1956 tập trung vào hai nhóm là:

1 - Dạy nghề cho một bộ phận bà con nông dân nhằm nâng cao kỹ năng nghề để tăng năng suất lao động nông nghiệp, hướng tới sản xuất nông nghiệp hiện đại trong những năm tới;

2 - Đào tạo nghề cho lao động nông thôn để chuyển dịch cơ cấu lao động, chuyển một bộ phận lao động nông thôn từ làm nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn hoặc làm việc tại các doanh nghiệp dịch chuyển khỏi địa bàn nông thôn.

Đối với nhóm 1, đối tượng chủ yếu là số lao động trung tuổi trở lên, khó có điều kiện tham gia vào các chương trình đào tạo nghề dài hạn, tập trung. Đối với nhóm 2, đối tượng chủ yếu là lao động trẻ, học sinh tốt nghiệp các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông nhưng không tiếp tục học đại học, cao đẳng, phần lớn sẽ được đào tạo dài hạn, tập trung, để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông thôn Việt Nam, nhằm đạt mục tiêu đến năm 2020 chỉ còn 30% số lao động trong nông nghiệp.

Để thực hiện được những nhiệm vụ này, trong Đề án 1956 đã đề ra 5 nhóm giải pháp và 8 hoạt động đồng bộ. Một trong những yêu cầu đối với các hoạt động của đề án là sau khi học nghề xong, tối thiểu phải 70% đến 80% số người có việc làm phù hợp với nghề được đào tạo.

Đây được xem như cơ hội “vàng” cho hàng triệu nông dân tiếp cận học nghề và tìm việc làm. Đề án trên hướng tới đối tượng còn nhiều khó khăn, thiệt thòi trong xã hội, do đó hợp lòng dân và được hy vọng sẽ sớm đi vào cuộc sống.

Hạt nhân - “ba nhà”, chung tay - cả hệ thống chính trị

Đề án 1956 được thực hiện từ nay đến năm 2020 và để thành công, các nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra, đòi hỏi phải huy động mọi nguồn lực, sự phối hợp, chung tay của cả hệ thống chính trị. Tuy nhiên, để hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn đạt được hiệu quả như mong muốn, một trong những nhân tố quan trọng, cốt lõi là sự phối hợp, gắn kết chặt chẽ giữa “ba nhà”: nhà nông - người học; nhà trường (cơ sở dạy nghề) - người đào tạo; nhà doanh nghiệp - người sử dụng lao động nông thôn qua đào tạo nghề hoặc sử dụng sản phẩm của người nông dân. Sự gắn kết, phối hợp này thể hiện ở những điểm sau:

- Đối với nhà nông - người học, để học nghề thành công, người nông dân phải tự xác định đây là cơ hội rất lớn nhằm nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, năng suất lao động, thu nhập cho bản thân và gia đình. Do đó, trước khi tham gia các khóa học, phải xác định nhu cầu học thực sự của mình (nghề cụ thể); nghề định học có phù hợp với khả năng và điều kiện của mình hay không? Sau khi học có định làm nghề đó hay không? Đồng thời, nông dân cũng cần có những tư vấn, hỗ trợ của các chuyên gia và các nhà doanh nghiệp, nhất là đối với nhóm lao động sẽ chuyển dịch ngành nghề.

Người lao động rất cần biết thông tin về nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp trên địa bàn, với những trình độ, kỹ năng nghề nhất định; thông tin về chủ trương, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương để có thể định hướng nghề nghiệp và việc làm cho mình. Như vậy, song song với các hoạt động tuyên truyền, tư vấn của các cấp ủy, chính quyền các cấp, các đoàn thể ở địa phương, nhà trường, doanh nghiệp phải có những người làm công tác tư vấn và có các “kênh” thông tin phù hợp để cung cấp cho người học.

- Đối với nhà trường - người đào tạo, theo Đề án 1956, bao gồm các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề; trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp của các bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, doanh nghiệp và cơ sở tư thục; trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp; các viện nghiên cứu, trung tâm học tập cộng đồng, trung tâm khuyến nông, lâm, ngư, trang trại, nông trường, lâm trường, doanh nghiệp, hợp tác xã và các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ... có đủ điều kiện được tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn (gọi chung là cơ sở dạy nghề).

Các cơ sở dạy nghề này cần xác định rõ lao động nông thôn là nhóm đối tượng đặc thù, họ có nhu cầu về nghề nghiệp rất đa dạng, nhưng năng lực và điều kiện lại rất khác nhau ở từng vùng miền, lứa tuổi, trình độ. Vì vậy, đồng thời với việc cung cấp thông tin về các khóa đào tạo với những tên nghề cụ thể, các cơ sở dạy nghề phải đổi mới chương trình theo hướng linh hoạt, đáp ứng được các nhu cầu đa dạng; đổi mới phương thức và hình thức tổ chức các khóa đào tạo.

Ngoài những chương trình đào tạo chính quy, hình thức đào tạo tập trung tại cơ sở dạy nghề, cần có những chương trình ngắn hạn, hình thức đào tạo phi tập trung, đào tạo tại thôn bản, tại nơi sản xuất của người nông dân. Đội ngũ giáo viên - người dạy không chỉ là những giáo viên cơ hữu mà có thể huy động cả những chuyên gia, cán bộ kỹ thuật, kỹ sư, người lao động có tay nghề cao tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh và các trung tâm khuyến nông, lâm, ngư, nông dân sản xuất giỏi tham gia dạy nghề. Bên cạnh đó, các cơ sở dạy nghề cần tư vấn, hỗ trợ người lao động nông thôn sau khi học nghề có được việc làm phù hợp. Điều này đòi hỏi giữa nhà trường và doanh nghiệp phải có sự gắn kết rất chặt chẽ cả trong và sau quá trình đào tạo. Công tác dự báo những nghề mới có thể phát sinh trên cơ sở nhu cầu của người học và nhu cầu của doanh nghiệp là rất quan trọng, nhằm chuẩn bị xây dựng chương trình và đội ngũ người đào tạo phù hợp.

- Đối với doanh nghiệp, là người sử dụng lao động nông thôn qua đào tạo nghề hoặc sử dụng sản phẩm của người nông dân làm ra, cần biết rõ: Người lao động nông thôn được đào tạo có phù hợp với công nghệ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hay không? (để sử dụng lao động); người nông dân làm ra những sản phẩm nông nghiệp đó như thế nào? Có phù hợp với yêu cầu “đầu vào” của doanh nghiệp hay không? Như vậy, muốn đạt hiệu quả kinh doanh cao, doanh nghiệp cũng phải rất “gắn” với nông dân, đồng thời tổ chức đào tạo nghề hoặc tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Thực tế trong 2 năm thực hiện thí điểm đào tạo nghề cho lao động một số vùng chuyên canh cây nguyên liệu (chè, thuốc lá...), cho thấy, khi doanh nghiệp tổ chức hoặc tham gia đào tạo nghề cho nông dân, lợi ích của cả người dân và doanh nghiệp đều rất rõ.

Đối với người nông dân, sau khi được học nghề do doanh nghiệp tổ chức, được trang bị những kiến thức cần thiết và thực hành tốt về kỹ thuật, ý thức của người học về gắn sản xuất với bảo vệ tính bền vững hệ sinh thái, năng suất và chất lượng cây trồng đã được nâng lên, tăng thu nhập cho bà con. Đối với doanh nghiệp, thông qua việc truyền đạt kiến thức và kỹ năng, đặc biệt là kiến thức bảo vệ an toàn thực vật cho bà con, nguyên liệu “đầu vào” cho sản xuất được bảo đảm hơn, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm “đầu ra” của doanh nghiệp. Mặt khác, sự tham gia của doanh nghiệp trong đào tạo nghề còn thể hiện trách nhiệm xã hội đối với lao động nông thôn.

Trong thời gian tới, Tổng cục Dạy nghề tiếp tục triển khai thí điểm một số mô hình dạy nghề cho lao động các vùng chuyên canh, như: lúa cao sản, cà phê, cao su, mía đường, chè, sắn..; chuyên con, như: chăn nuôi bò, thủy sản, gia cầm... với sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp. Đối với các nhóm lao động “chuyển dịch”, nhiều doanh nghiệp đã cam kết về việc làm sau khi đào tạo; công bố mức lương khi lao động được tuyển dụng. Điều này đã tăng thêm động lực và tạo niềm tin cho người lao động nông thôn khi tham gia học nghề. Sự gắn kết trên cũng góp phần tránh việc đào tạo giả, học giả, chạy theo chỉ tiêu, thành tích, mà không thực chất.

Như vậy, đối với đào tạo nghề cho lao động nông thôn, việc phối hợp, gắn kết giữa “ba nhà” nêu trên, vừa là yêu cầu, vừa là nhu cầu tất yếu. Tuy nhiên, “ba nhà” là lực lượng chính, song chưa đủ, mà còn cần sức mạnh của cả hệ thống chính trị, để đạt mục tiêu lớn của nước ta trong thập kỷ thứ hai, thế kỷ XXI, là đào tạo và tạo việc làm cho hơn một nửa trong tổng số lao động nông thôn của cả nước./.