Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh

Hà Thị Khiết Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương
23:18, ngày 18-06-2014

TCCS - Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định vai trò to lớn của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng nói chung và đối với công tác xây dựng Đảng nói riêng; là yếu tố bảo đảm sự sống còn của Đảng, của chế độ ta.

1- Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức lãnh đạo của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Đảng từ nhân dân mà ra, phục vụ lợi ích của nhân dân, ngày càng gắn bó với nhân dân. Chính mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân đã tạo nên sức mạnh của Đảng và sức mạnh của dân tộc. Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã đặc biệt coi trọng công tác dân vận và khẳng định: Sức mạnh của cách mạng ở nơi dân. Đảng phải dựa vào dân để làm cách mạng. Đây là điều cốt yếu hằng ngày của Đảng và công tác dân vận của Đảng được xác định là một nhiệm vụ trung tâm hàng đầu của toàn Đảng. Bác Hồ đã dạy “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”(1).

Kể từ khi có Đảng, quần chúng nhân dân Việt Nam tin yêu Đảng, theo Đảng suốt hành trình cách mạng, từ đó mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân bền chặt như máu thịt. Chính có mối quan hệ sâu sắc đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã lập nên bao kỳ tích lịch sử: Tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, xây dựng nước Việt Nam mới; đánh thắng hai đế quốc to, thống nhất đất nước, cả nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, thực hiện công cuộc đổi mới với những thành tựu to lớn.

Xây dựng Đảng không chỉ là công việc của Đảng mà còn là công việc của nhân dân. Nhân dân luôn góp ý, nêu sáng kiến tham gia xây dựng đường lối của Đảng và chính nhân dân là lực lượng thực hiện hăng hái, có hiệu quả đường lối đó; nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên, công chức và các tổ chức đảng, chính quyền các cấp trong việc thực hiện chủ trương, chính sách và pháp luật; nhân dân góp phần phát hiện và đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Qua gần ba thập niên thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị, đẩy mạnh hội nhập quốc tế và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Những thành quả đó không thể tách rời đóng góp to lớn của nhân dân. Đảng ta khẳng định: “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay”(2). Đại hội XI của Đảng tiếp tục xác định, để củng cố, xây dựng Đảng vững mạnh, cần “tăng cường đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”(3).

Để tiếp tục tạo điều kiện phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, Bộ Chính trị đã ban hành Quy chế Dân chủ ở cơ sở, Quy định số 76-QĐ/TW, ngày 15-6-2000, về việc đảng viên đang công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú; Nhà nước ban hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn... Các hình thức góp ý cho Đảng và giám sát cán bộ, đảng viên ngày càng phong phú. Đảng và Nhà nước đã tổ chức nhiều cuộc lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân cả nước góp ý vào dự thảo Cương lĩnh, dự thảo các văn kiện Đại hội, dự thảo sửa đổi Hiến pháp, dự thảo các luật, pháp lệnh. Ở nhiều địa phương, cơ quan, cơ sở đã tổ chức đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy với nhân dân; tổ chức lấy ý kiến nhận xét của nhân dân nơi cư trú đối với cán bộ, đảng viên trước khi kiểm điểm cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên theo định kỳ. Có nhiều hình thức góp ý, như thông qua hòm thư góp ý xây dựng Đảng, thông qua trang thông tin điện tử của các cơ quan, tổ chức đảng; qua chuyên mục góp ý xây dựng Đảng trên báo chí; thông qua việc gửi thư góp ý đến Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội; thông qua điện thoại “đường dây nóng” và thông qua tiếp xúc trực tiếp của cán bộ, đảng viên với nhân dân. Nhà nước xây dựng và ban hành nhiều luật để thể chế hóa quyền làm chủ của nhân dân: Luật Khiếu nại; Luật Tố cáo; Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Tiếp công dân; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí... Thông qua đó, nhân dân là người phát hiện, tố giác nhiều vụ tham nhũng, tiêu cực, góp phần làm trong sạch bộ máy Đảng, Nhà nước.

2- Trong những năm qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân đã thực hiện có hiệu quả vai trò của mình trong các hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý kiến đối với một số hoạt động của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước; góp ý về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Các hoạt động đã góp phần tích cực vào xây dựng cương lĩnh chính trị, Hiến pháp, pháp luật, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước; góp phần tích cực phòng, chống tham nhũng, lãng phí; xây dựng ý thức trách nhiệm, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên... Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân đã có nhiều nỗ lực trong đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, lắng nghe, tuyên truyền, vận động, tập hợp đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, giữ vai trò là cầu nối gắn kết giữa Đảng với nhân dân. Trong đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, các đoàn thể đều chủ trương hướng mạnh hoạt động về cơ sở, sâu sát quần chúng, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của quần chúng, phản ánh kịp thời cho Đảng, Nhà nước. Đã quan tâm thực hiện tốt hơn chức năng đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đoàn viên, hội viên và nhân dân; từng bước thực hiện có hiệu quả việc giám sát, phản biện xã hội và góp ý vào các hoạt động của tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử trong thực thi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Tuy nhiên, ở nhiều nơi người dân còn né tránh, e ngại góp ý; việc giám sát và tham gia góp ý của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước chưa được nhiều, nhiều nơi còn mang tính hình thức. Việc xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận có nơi còn chưa kịp thời, hiệu quả thấp. Việc thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác dân vận chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao, nhất là cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, nhiều bức xúc chưa được giải quyết; quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi bị vi phạm, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Nguyên nhân chủ yếu là do chưa có sự lãnh đạo tập trung, thống nhất. Nhiều nơi còn coi nhẹ công tác giám sát, phản biện xã hội và lấy ý kiến góp ý của nhân dân; một bộ phận cán bộ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quan liêu, xa rời nhân dân. Một số cấp ủy đảng chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của công tác dân vận; chưa thấy hết trách nhiệm và chưa quan tâm đúng mức lãnh đạo, chỉ đạo công tác này. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý còn thiếu gương mẫu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong thực thi công vụ và phục vụ nhân dân. Tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội ở một số cơ sở yếu kém, giảm sút vai trò lãnh đạo, phối hợp thiếu chặt chẽ, không sát dân, không làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân. Việc chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, đoàn thể chưa thực sự đáp ứng yêu cầu.

Trước yêu cầu sự nghiệp đổi mới của Đảng, dựa vào dân để xây dựng Đảng, ngày 12-12-2013, Bộ Chính trị khóa XI ban hành 2 quyết định: Quyết định số 217-QĐ/TW về “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội”; và Quyết định số 218-QĐ/TW “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”. Bộ Chính trị ban hành hai quyết định này là cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” và thực hiện Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi, được Quốc hội khóa XIII thông qua tại Kỳ họp thứ 6, ngày 28-11-2013.

3- Sự ra đời của Quy chế và Quy định nói trên theo các quyết định số 217-QĐ/TW và số 218-QĐ/TW có ý nghĩa quan trọng trong tình hình hiện nay, thể hiện sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; phản ánh ý chí và nguyện vọng của nhân dân ta, là sự hòa quyện giữa ý Đảng lòng dân trong quá trình phát triển, triển khai và cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Để triển khai thực hiện tốt hai quyết định số 217-QĐ/TW và số 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị, các cấp ủy, tổ chức đảng cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một số nội dung, đó là:

Một là, các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức phổ biến, quán triệt, triển khai thực hiện “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội”; và “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” đến tất cả các cấp ủy, tổ chức đảng, các cấp chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân. Nâng cao chất lượng quán triệt, tuyên truyền, giáo dục, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững, nhất trí với mục đích, nguyên tắc, phạm vi, nội dung, phương pháp, trách nhiệm... đã xác định trong Quy chế, Quy định; tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” và các quan điểm của Đảng đã được xác định trong các nghị quyết, văn kiện đại hội của Đảng. Tăng cường lãnh đạo công tác thông tin, tuyên truyền, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan thông tin đại chúng; mở rộng các kênh thông tin truyền thông, đối thoại trực tiếp với nhân dân, góp phần giải tỏa bức xúc, hoài nghi trong xã hội. Đẩy mạnh tuyên truyền, cổ vũ và nhân rộng các nhân tố mới, các điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trên mọi lĩnh vực, nhất là những điển hình về phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh.

Hai là, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc thể chế hóa các quy chế, quy định nói trên của Bộ Chính trị. Trong các quy chế, quy định, Bộ Chính trị đã xác định rất rõ trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, vì vậy việc quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc thể chế hóa Quy chế, Quy định của Bộ Chính trị, tạo cơ chế để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện Quy chế, Quy định đồng bộ, thống nhất là hết sức quan trọng. Các đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy trực thuộc Trung ương tổ chức phổ biến, quán triệt, triển khai thực hiện Quy chế, Quy định ở tổ chức, đơn vị mình; đồng thời nghiên cứu, lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện những nội dung có liên quan trong Quy chế, Quy định theo thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức, đơn vị mình.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội quan tâm lãnh đạo việc ban hành hướng dẫn thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW và xây dựng quy định cụ thể thực hiện Quyết định số 218-QĐ/TW để triển khai tổ chức thực hiện thống nhất trong toàn hệ thống chính trị, từ Trung ương tới địa phương, cơ sở; đồng thời tổ chức phổ biến, quán triệt Quy chế, Quy định đến cán bộ chủ chốt của tổ chức mình. Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền cho đội ngũ cán bộ các cấp. Tiếp tục phát huy vai trò của báo chí, phát thanh truyền hình trong việc xây dựng chuyên trang, chuyên mục để tuyên truyền về Quy chế, Quy định của Bộ Chính trị để cán bộ, đoàn viên, hội viên và đông đảo quần chúng nhân dân biết, thực hiện và tích cực tuyên truyền về các điển hình tốt, sáng tạo trong thực hiện Quy chế, Quy định.

Ba là, phát huy vai trò của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng trong việc quán triệt, triển khai thực hiện Quy chế, Quy định. Để thực hiện đồng bộ, có hiệu quả và sớm đưa Quy chế, Quy định của Bộ Chính trị đi vào cuộc sống cần có sự quan tâm, nêu cao tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng. Sự quan tâm chỉ đạo, kiểm tra và gương mẫu thực hiện của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng là nguồn động lực và có ý nghĩa quan trọng đến kết quả việc thực hiện Quy chế, Quy định.

Bốn là, tăng cường công tác phối hợp giữa các tổ chức, cơ quan, ban, ngành với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở Trung ương và địa phương trong việc quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện Quy chế, Quy định. Thông qua nhiều hình thức, cách làm phong phú, sinh động, rộng khắp và phù hợp với từng đối tượng để tuyên truyền, vận động như: thông qua báo chí, đài phát thanh, truyền hình; qua sinh hoạt của các tổ chức đảng, đoàn thể; thông qua hệ thống nhà trường... nhằm nâng cao nhận thức, thống nhất trong tổ chức thực hiện, nhanh chóng đưa Quy chế, Quy định đi vào cuộc sống, góp phần củng cố niềm tin trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

Ban Dân vận cấp ủy các cấp là cơ quan chủ trì phối hợp với các ban đảng của cấp ủy; với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội tham mưu cho cấp ủy để tổ chức phổ biến, quán triệt, triển khai; hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức thực hiện Quy chế, Quy định của các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Các lực lượng làm dân vận của hệ thống chính trị tiếp tục hướng mạnh về cơ sở, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và những đề xuất, kiến nghị chính đáng của các tầng lớp nhân dân, để nghiên cứu và tham mưu cho cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết kịp thời, hiệu quả.

Năm là, coi trọng công tác kiểm tra, đôn đốc, rút kinh nghiệm việc thực hiện Quy chế, Quy định ở các cấp. Thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, giám sát thực hiện Quy chế, Quy định ở các cấp; đánh giá, nắm chắc tình hình việc triển khai thực hiện ở các cấp, các ngành, các tổ chức. Từ đó, có chỉ đạo, hướng dẫn, rút kinh nghiệm việc thực hiện ở từng cấp, từng loại hình tổ chức; uốn nắn kịp thời bảo đảm việc quán triệt, triển khai thực hiện có tính thống nhất, thường xuyên, liên tục; khắc phục được những tư tưởng trông chờ, ỷ lại, ngại khó, hoặc thiếu sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Quy chế, Quy định.

Việc quán triệt, triển khai thực hiện Quy chế, Quy định cần gắn chặt với thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Xử lý nghiêm những đối tượng thoái hóa, biến chất, ức hiếp nhân dân, vi phạm quyền lợi chính đáng của nhân dân, không còn tín nhiệm trong nhân dân. Quan tâm giải quyết những vấn đề bức xúc liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân, như việc làm; giải tỏa, đền bù, thu hồi đất; tai nạn giao thông; tệ nạn xã hội... Có những biện pháp cụ thể, thiết thực chăm lo cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Có như vậy mới củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, mới phát huy được sức mạnh của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh./.

-------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 286

(2) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 460

(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 316