Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, những năm qua, công tác xây dựng tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên ở Bình Thuận ngày càng có sự chuyển biến tích cực cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu; bảo đảm thực hiện khá tốt chức năng, nhiệm vụ theo các quy định của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Tuy nhiên, Tỉnh ủy Bình Thuận cũng kịp thời nhận rõ những hạn chế, yếu kém và có các giải pháp cụ thể, hữu hiệu để không ngừng phát huy hiệu quả công tác này.

Thành tựu và những bước chuyển

Đến ngày 31-12-2007, tỉnh Bình Thuận có 18.946 đảng viên; trong đó, tỷ lệ đảng viên là nữ, là người dân tộc thiểu số, người có đạo, là đoàn viên thanh niên lần lượt là: 29,38%, 4,6%, 3,2%, 18 % trong tổng số đảng viên của toàn Đảng bộ. Bên cạnh sự chuyển biến tích cực về cơ cấu thì số lượng đảng viên nữ, đảng viên là người dân tộc thiểu số, đảng viên là người có đạo... đều tăng qua các năm; đặc biệt, đội ngũ đảng viên ngày càng được trẻ hóa; trình độ mọi mặt ngày càng tăng; được phân bổ khá đồng đều ở các lĩnh vực, trong đó, đảng viên ở địa bàn dân cư, trường học, bệnh viện tăng mạnh. Đa số đảng viên tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu trong công tác và sinh hoạt ở cơ sở, giữ mối quan hệ mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. Hằng năm, đảng viên kết nạp mới đều đạt và vượt kế hoạch về số lượng, chất lượng được nâng lên cả về trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị; công tác bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên được các cấp ủy và tổ chức cơ sở đảng quan tâm hơn.

Đội ngũ cấp ủy viên ở xã, phường, thị trấn từng bước được củng cố, kiện toàn. Hầu hết các đồng chí được điều động, luân chuyển, tăng cường từ cấp tỉnh, cấp huyện về tham gia cấp ủy cơ sở và làm cán bộ chủ chốt (bí thư, phó bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch UBND) đều phát huy tốt vai trò lãnh đạo, gương mẫu trong công tác và sinh hoạt, có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ; gần gũi với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm, góp phần giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng ở cơ sở.

Hoạt động của hầu hết các tổ chức cơ sở đảng từng bước được đổi mới cả về nội dung, phương thức và chất lượng được nâng lên so với trước; đã khắc phục dần tình trạng bao biện làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng ở cơ sở. Các cấp ủy cơ sở ngày càng có nhiều cố gắng trong việc vận dụng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên vào tình hình của từng địa phương, cơ quan, đơn vị; từ đó tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm, đề ra chương trình, kế hoạch cụ thể để tổ chức thực hiện. Đa số cán bộ, đảng viên giữ gìn được phẩm chất đạo đức, phát huy vai trò, trách nhiệm trong công tác và ngày càng được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hợp lý. Các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng cơ bản được chấp hành nghiêm túc; dân chủ nội bộ không ngừng được phát huy; đoàn kết nội bộ ở nhiều nơi được củng cố, tăng cường; công tác bảo vệ chính trị nội bộ ngay từ cơ sở được quan tâm hơn trước.

Hạn chế và những bất cập

Bên cạnh những ưu điểm trên, thời gian qua, công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng cũng như xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Bình Thuận còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém, biểu hiện qua các mặt sau đây:

Thứ nhất, về mặt tổ chức, trong khi ở một số nơi, tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên còn thuộc nhiều cấp trên khác nhau, hay một số chi bộ khu phố có số đảng viên khá đông nhưng chưa được sắp xếp hợp lý nên còn gặp khó khăn cả trong hoạt động và sinh hoạt; thì nhiều nơi vẫn chưa có tổ chức đảng và đảng viên (cả tỉnh còn 131 thôn, khu phố chưa có tổ chức đảng; 19 thôn, khu phố và 58 trường học chưa có đảng viên; nhiều doanh nghiệp tư nhân chưa có đảng viên, chưa có tổ chức đảng và tổ chức đoàn thể). Công tác xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể ở những doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn nhiều khó khăn, chưa đáp ứng yêu cầu tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội của tỉnh.

Thứ hai, trình độ mọi mặt của đội ngũ cấp ủy viên ở xã, phường, thị trấn vẫn còn bất cập; năng lực lãnh đạo, quản lý còn nhiều hạn chế, chưa đủ sức giải quyết những vấn đề cụ thể, phức tạp mới phát sinh ở cơ sở. Số cấp ủy viên chưa đủ chuẩn theo quy định nên phải vừa làm, vừa học còn khá nhiều, ảnh hưởng không ít đến vai trò lãnh đạo của cấp ủy cơ sở xã, phường, thị trấn. Tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình trong nội bộ ở một số cấp ủy còn yếu, một số cấp ủy viên, người đứng đầu (bí thư, chủ tịch) sa sút về phẩm chất đạo đức, lối sống, lợi dụng chức trách được giao để vun vén cá nhân, vi phạm pháp luật, gây mất đoàn kết nội bộ... đã ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân (năm 2007 có 78 cấp ủy viên cơ sở /86 cấp ủy viên các cấp có sai phạm đã bị xử lý kỷ luật).

Thứ ba, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn còn nhiều khó khăn, bất cập; chưa đạt yêu cầu đề ra, nhất là ở khâu quy hoạch, bố trí cán bộ. Một số cấp ủy cơ sở còn cục bộ, khép kín trong công tác cán bộ; trong bố trí cán bộ, nhất là cán bộ chuyên trách các đoàn thể, chưa bám sát tiêu chuẩn theo quy định; Một số cán bộ chưa đạt chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ (chiếm 23,46 %), về lý luận chính trị (chiếm 26,58%) hoặc năng lực chuyên môn, sức khỏe yếu, tuổi cao... nhưng chưa được thay thế kịp thời. Đội ngũ cán bộ trẻ tuy được đào tạo cơ bản nhưng thiếu kinh nghiệm và phương pháp công tác nên phát huy hiệu quả chưa cao.

Thứ tư, tỷ lệ đảng viên là đoàn viên thanh niên, công nhân lao động trong các thành phần kinh tế, nông dân, học sinh, sinh viên còn quá thấp; trình độ, năng lực tuy được nâng lên nhưng vẫn còn thấp so với yêu cầu, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng bãi ngang ven biển. Còn khá nhiều tổ chức cơ sở đảng không kết nạp được đảng viên mới (năm 2007 chiếm 36,26%); nhiều nơi chưa chú ý đúng mức hoặc chưa có kế hoạch, biện pháp cụ thể để kết nạp đảng viên ở địa bàn dân cư, trường học, trạm y tế, công nhân trực tiếp sản xuất - kinh doanh trong các thành phần kinh tế, nông dân... Việc kết nạp đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn gặp nhiều khó khăn và đạt kết quả thấp.

Thứ năm, công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên ở nhiều nơi còn lúng túng, chuyển biến chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Một số cấp ủy cơ sở chưa nắm vững và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Ban Bí thư Trung ương Đảng; vai trò "hạt nhân chính trị" ở cơ sở bị giảm sút. Phương thức lãnh đạo chậm được đổi mới, vẫn còn tình trạng bao biện làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo, thiếu kiểm tra, giám sát của cấp ủy. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng thiếu chủ động, nhạy bén, chậm đổi mới; nội dung giáo dục còn chung chung, thiếu cụ thể; việc phổ biến, quán triệt, học tập chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ở nhiều nơi vẫn còn hình thức và không đầy đủ, kịp thời; ở nhiều nơi, chất lượng sinh hoạt chi bộ chưa cao, tinh thần đấu tranh, tự phê bình và phê bình nhìn chung còn yếu, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm chậm được khắc phục có hiệu quả v.v..

Nhiệm vụ và giải pháp

Để không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên và phát huy ngày càng cao vai trò là "hạt nhân chính trị", thiết thực nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, Tỉnh ủy Bình Thuận xác định sẽ tiếp tục thực hiện tốt các nhiệm vụ và giải pháp sau đây:

Một là, làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng gắn với công tác quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên ngay từ chi bộ. Từng cấp ủy, chi bộ phải thường xuyên nắm chắc tình hình, diễn biến tư tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đổi mới phương pháp nghiên cứu, học tập nghị quyết cho cán bộ, đảng viên theo hướng sát hợp với từng đối tượng. Có kế hoạch cụ thể để cán bộ, đảng viên tham gia học tập lý luận chính trị, cập nhật kiến thức, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Thường xuyên giáo dục cho cán bộ, đảng viên đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng; rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống gắn với tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; giáo dục ý thức gương mẫu, tổ chức kỷ luật, chấp hành nghiêm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước của người cán bộ, đảng viên và sự chỉ đạo của cấp trên. Tiến hành sơ kết và tiếp tục thực hiện nghiêm túc quy định số 76-QĐ/TW của Trung ương và Quy định số 10-QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc đảng viên đang công tác giữ mối liên hệ và thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Có kế hoạch thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ được phân công, việc rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; kịp thời biểu dương khen thưởng những cán bộ, đảng viên gương mẫu tiêu biểu, đồng thời có biện pháp cụ thể để phòng ngừa, giáo dục, giúp đỡ và xử lý nghiêm minh đối với những cán bộ, đảng viên sai phạm.

Hai là, sắp xếp tổ chức đảng, đoàn thể phù hợp, gắn liền với đẩy mạnh công tác kết nạp đảng viên mới. Rà soát để sắp xếp lại các tổ chức đảng, đoàn thể trong các cơ quan, đơn vị, địa phương nhằm bảo đảm tổ chức cơ sở đảng lãnh đạo các đoàn thể quần chúng tại cơ sở theo đúng chức năng. Sắp xếp lại để bảo đảm vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, gắn công tác xây dựng Đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị xây dựng các đoàn thể quần chúng và công tác cán bộ của cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Thống kê số đảng viên đang làm việc ổn định, lâu dài trong các trường học, bệnh viện ngoài công lập, doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn sinh hoạt Đảng ở nơi cư trú để chuyển sinh hoạt Đảng về nơi làm việc hoặc ở những nơi phù hợp. Từng chi bộ, đảng bộ cơ sở phải xây dựng kế hoạch cụ thể về công tác phát triển đảng viên mới; chú trọng phát triển đảng viên mới ở địa bàn dân cư (thôn, khu phố), trong trường học, trạm y tế, lực lượng dân quân tự vệ, đội ngũ giáo viên. Tích cực vận động thành lập tổ chức cơ sở đảng ở các doanh nghiệp có đủ điều kiện, đồng thời chú trọng công tác tuyên truyền giáo dục, phát triển đảng viên mới và thành lập tổ chức đảng ở những doanh nghiệp còn lại. Phấn đấu đến cuối năm 2010, tất cả các thôn, khu phố trong tỉnh đều có đảng viên; tất cả các doanh nghiệp ngoài nhà nước có đủ số lượng đảng viên đều lập tổ chức đảng; đến cuối năm 2012 tất cả các thôn, khu phố đều có tổ chức đảng và 100% trường học công lập (từ nhà trẻ, mẫu giáo trở lên) và trạm y tế xã, phường, thị trấn có đảng viên.

Ba là, tạo bước chuyển tích cực về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU của Tỉnh ủy (khóa X) Về xây dựng đội ngũ cán bộ đến năm 2010, định hướng đến năm 2015. Quán triệt các chủ trương luân chuyển, tăng cường cán bộ cho cấp xã, phường, thị trấn và "đại học hóa" cán bộ, công chức ở cơ sở. Kiên quyết thay thế những cán bộ, công chức có năng lực chuyên môn, sức khỏe hạn chế, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đổi mới mạnh mẽ công tác đánh giá, đề bạt cán bộ theo hướng lấy kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao làm thước đo chủ yếu. Thường xuyên củng cố, kiện toàn đội ngũ cấp ủy cơ sở đủ về số lượng theo quy định của Điều lệ Đảng. Định kỳ hằng năm tổ chức bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ chuyên trách, cấp ủy viên cơ sở những kiến thức mới, những chủ trương chính sách mới của Đảng và Nhà nước.

Bốn là, đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức cơ sở đảng; nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi ủy, đảng ủy, chi bộ, đảng bộ cơ sở đi đôi với đổi mới công tác đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Các tổ chức cơ sở đảng phải quán triệt, thực hiện đúng đắn, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Ban Bí thư Trung ương Đảng; trên cơ sở đó tiến hành kiểm điểm, rà soát việc thực hiện quy chế làm việc của cấp ủy, chi bộ đã xây dựng để có sự điều chỉnh, bổ sung những nội dung phù hợp, bảo đảm phát huy đúng mức vai trò lãnh đạo của Đảng. Đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp ủy, chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu; nội dung sinh hoạt phải cụ thể, thiết thực, trong đó phải đánh giá đúng và giải quyết kịp thời những vấn đề về tư tưởng mới phát sinh trong cán bộ, đảng viên và quần chúng thuộc phạm vi mình phụ trách. Đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hằng năm bảo đảm nghiêm túc, đúng thực chất và phải gắn với phong trào thi đua yêu nước. Căn cứ vào những yêu cầu đã được xác định, Ban Tổ chức Tỉnh ủy rà soát lại hệ thống tiêu chí đánh giá tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên một cách phù hợp; các huyện, thị, thành ủy, đảng ủy trực thuộc cụ thể hóa để chỉ đạo triển khai trong phạm vi lãnh đạo của địa phương, đơn vị mình.

Năm là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, công tác kiểm tra, giám sát và phúc tra của cấp ủy cấp trên đối với cơ sở trong việc chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng, thực hiện quy chế làm việc, rèn luyện, giáo dục, quản lý đảng viên. Thường xuyên gặp gỡ, tiếp xúc với cơ sở, nắm bắt và giải quyết kịp thời những vướng mắc, kiến nghị của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; tập trung trước hết cho những cơ sở trọng điểm, cơ sở thuộc diện khó khăn, yếu kém. Lấy kết quả và hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở đảng để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cấp ủy và cấp ủy viên (của cấp trên cơ sở) được phân công phụ trách./.