Chuyển biến mới về giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số tỉnh Yên Bái
Nỗ lực khắc phục khó khăn, vượt qua thử thách
Yên Bái thuộc vùng Tây Bắc của Tổ quốc, có 30 dân tộc chung sống trên địa bàn, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 50%. Trong số 9 huyện, thị xã, thành phố, có 2 huyện Trạm Tấu và Mù Cang Chải thuộc diện 62 huyện nghèo nhất cả nước; có 70 xã vùng cao và 58 xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn trên tổng số 180 xã, phường, thị trấn. Trong bối cảnh khó khăn chung của tỉnh, ngành giáo dục và đào tạo Yên Bái luôn phải đối mặt với không ít thách thức, như: địa hình núi cao hiểm trở, việc đến trường học ở những xã vùng sâu, vùng xa gặp nhiều trở ngại, nhất là trong mùa mưa bão với hiện tượng lũ quét, sạt lở, mưa đá,… Cơ sở vật chất trường học yếu kém, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học tập rất thiếu thốn; tâm lý, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều lạc hậu. Đa số học sinh là dân tộc thiểu số và con em đồng bào ở những vùng quá khó khăn, không có động cơ tích cực học tập; cơ hội tìm kiếm việc làm để bảo đảm đời sống rất ít. Có những thời điểm, tại các huyện vùng cao không thể huy động học sinh đến lớp, như huyện Trạm Tấu năm học 2004 - 2005, chỉ huy động được 3 học sinh dân tộc H’Mông vào học trường Trung học phổ thông.
Từ thực tế đó, ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Yên Bái đã phối hợp với các ngành, các địa phương, đoàn thể, đơn vị trên địa bàn tỉnh chủ động, tích cực tìm kiếm và có những cách làm sáng tạo, phù hợp. Trước hết, ngành đã tham mưu, đề xuất với Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh quan tâm chỉ đạo và huy động các lực lượng xã hội cùng vào cuộc để chung tay giải quyết những khó khăn cho các cơ sở trường học như làm nhà ở cho học sinh bán trú, quyên góp, ủng hộ lương thực, thực phẩm để học sinh yên tâm ra lớp; tỉnh đã ban hành chính sách riêng cho 2 huyện Trạm Tấu và Mù Cang Chải, hỗ trợ học sinh bậc trung học phổ thông và bổ túc bậc trung học là người H’Mông 15kg gạo/tháng. Nhờ thế, số lượng học sinh ra lớp tăng cao.
Tuy nhiên, do địa hình phức tạp, đường sá đi lại khó khăn, ngoài một số học sinh được học tại các trường nội trú thì một bộ phận không nhỏ học sinh không thể trở về nhà trong ngày. Nhiều trường đã bố trí tận dụng các lớp học, nhà ở giáo viên hoặc làm nhà tạm trong khuôn viên trường để học sinh đến ở, liên hệ với các gia đình xung quanh khu vực trường để học sinh ở trọ; nhiều gia đình người dân chủ động làm lán, dựng lều gần trường cho con em họ đi học, mượn đất để làm nhà cho học sinh, trồng rau xanh, góp gạo nấu cơm chung cho các em,… Mô hình trường bán trú dân nuôi ra đời đã bước đầu giúp bảo đảm số lượng, chất lượng học tập của học sinh.
Cả hệ thống chính trị vào cuộc
Tất cả những hoạt động trên đã đáp ứng phần nào nhu cầu thực tiễn, song vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu yếu tố bền vững. Vì thế, ngành giáo dục xác định cần phải huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc để khắc phục những khó khăn này. Ngành đã chủ động tham mưu với Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành các nghị quyết để các cấp chính quyền, các ban, ngành trong tỉnh Yên Bái hỗ trợ, đầu tư phát triển giáo dục: Nghị quyết số 10-NQ/TU của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về đẩy mạnh phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2009 - 2015; Nghị quyết số 22/2009/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh về xây dựng trường phổ thông dân tộc bán trú giai đoạn 2010 - 2015; Nghị quyết số 42/2011/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc phê duyệt Đề án Phát triển giáo dục Mầm non tỉnh Yên Bái giai đoạn 2011 - 2015; Nghị quyết số 43/2011/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc phê duyệt Đề án Xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2011 - 2015 cùng nhiều nghị quyết, đề án, chỉ thị của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh được ban hành, với mục tiêu hỗ trợ cho giáo dục dân tộc có những bước đi cơ bản, tiến tới từng bước nâng cao chất lượng theo hướng bền vững. Với mục tiêu chung là: “Phấn đấu đến năm 2015, đẩy mạnh phát triển giáo dục vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn. Tập trung đầu tư xây dựng hệ thống trường phổ thông dân tộc bán trú. Tiếp tục củng cố, phát triển trường phổ thông dân tộc nội trú ở huyện. Huy động tối đa học sinh dân tộc thiểu số trong độ tuổi đến lớp”, “Xây dựng trường phổ thông dân tộc bán trú nhằm huy động tối đa trẻ trong độ tuổi ra lớp, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, tạo nền móng vững chắc cho phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và trung học cơ sở ở các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa của tỉnh…”.
Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, các cấp, các ngành cùng vào cuộc với ngành giáo dục và đào tạo trong công tác giáo dục cho trẻ em dân tộc thiểu số. Trước hết, ngành giáo dục và đào tạo đã phối hợp với các địa phương tăng cường công tác tuyên truyền chính sách của Đảng, Nhà nước và của tỉnh về công tác giáo dục dân tộc; quan tâm tuyên truyền, tập huấn cho các bí thư, trưởng thôn, bản để triển khai các chính sách giáo dục, phổ cập giáo dục nhằm huy động các cấp ủy đảng, chính quyền và đoàn thể xã hội tại địa phương vào cuộc tích cực, huy động học sinh theo độ tuổi ra lớp, ngăn chặn tình trạng bỏ học, tạo môi trường giáo dục tốt hơn. Đồng thời, ngành giáo dục huy động toàn bộ cán bộ giáo viên đang công tác tại các trường vùng cao, vùng dân tộc thiểu số vận đồng quần chúng nhân dân ủng hộ chính sách giáo dục và làm tốt công tác huy động trẻ em đến lớp, tránh tình trạng học sinh bỏ học, nhất là không để tình trạng học sinh bỏ học do thiếu ăn... Đây là tiền đề để từng bước nâng cao chất lượng giáo dục.
Với hệ thống các trường Phổ thông dân tộc nội trú, ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Yên Bái đã tham mưu với Ủy ban nhân dân tỉnh từng bước củng cố, hoàn thiện, mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng dạy và học theo đúng Quyết định số 179/QĐ-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo bằng việc ban hành Kế hoạch tổ chức triển khai Quyết định số 1640/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án củng cố và phát triển các trường phổ thông dân tộc nội trú. Toàn tỉnh tập trung mọi nguồn lực để tăng cường chất lượng các trường trong mô hình này; tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất; tăng diện tuyển thẳng học sinh khá, giỏi và đạt giải cao trong kỳ thi học sinh giỏi; tổ chức dạy 2 buổi/ngày; bảo đảm khẩu phần dinh dưỡng và an toàn thực phẩm...
Ngành cũng đã tham mưu với Ủy ban nhân dân tỉnh nhanh chóng chỉ đạo việc thành lập ban quản lý, xây dựng, điều hành trường bán trú, bố trí đủ định biên, nhân viên dinh dưỡng... của hệ thống trường bán trú theo đúng Thông tư số 24/2010/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Quy chế hoạt động của trường Phổ thông dân tộc bán trú và Đề án Xây dựng trường bán trú ban hành kèm theo Nghị quyết số 22/2009/NQ-HĐND. Các ngành chức năng đã dành ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị cho các trường phổ thông dân tộc bán trú, bố trí nguồn kinh phí hỗ trợ học sinh bán trú theo Quyết định số 85/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Các đoàn thể chính trị - xã hội tích cực huy động lực lượng xã hội tình nguyện tham gia quyên góp tiền, hiện vật để hỗ trợ đầu tư xây dựng nhà ở, trang bị đồ dùng học tập, đồ dùng sinh hoạt, tặng học bổng cho học sinh các trường phổ thông dân tộc bán trú, góp phần tham gia vận động học sinh ra lớp. Các cơ quan truyền thông tích cực tuyên truyền về mô hình trường phổ thông dân tộc bán trú đến nhân dân. Ủy ban nhân dân các huyện ra quyết định chuyển đổi các trường trên địa bàn sang mô hình trường phổ thông dân tộc bán trú. Một số huyện, điển hình là huyện Trạm Tấu thực hiện tốt việc xây dựng kho thóc khuyến học, 100% xã trong huyện có kho thóc khuyến học, hỗ trợ bữa trưa cho học sinh không được hưởng chính sách ưu đãi, hỗ trợ học sinh mồ côi. Tỉnh đã có chủ trương hằng năm vận động, cán bộ công chức của cả tỉnh ủng hộ một ngày lương cho học sinh các trường phổ thông dân tộc bán trú; đồng thời chỉ đạo các đảng bộ huyện phân công các chi bộ, các cơ quan nhận đỡ đầu từng trường. Nhiều hộ gia đình đã hiến đất cho các trường; điển hình như ở huyện Văn Chấn có 8 gia đình đã hiến 13.992m² đất, trong đó có gia đình ông Vàng Nủ Nhà, xã Sùng Đô, hiến trên 4.000m² đất,... Nhiều doanh nghiệp ở Trung ương, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, nhiều nhà hảo tâm đã chung tay đóng góp, giúp đỡ tài chính, hiện vật cho các trường vùng cao Yên Bái.
Có thể nói, Nghị quyết của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh đã được ban hành rất kịp thời và thực sự đi vào cuộc sống, được Đảng bộ, chính quyền, nhân dân và đặc biệt là ngành giáo dục và đào tạo Yên Bái đồng hành, chung sức thực hiện.
Bước chuyển cơ bản đáng ghi nhận
Sau ba năm triển khai thực hiện, Nghị quyết số 10 của Tỉnh ủy và Nghị quyết số 22 của HĐND đã khẳng định hướng đi đúng, đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn về phát triển giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số khó khăn. Việc vận dụng sáng tạo để xây dựng các mô hình trường Phổ thông dân tộc bán trú trên cơ sở thực hiện đầy đủ, kịp thời chế độ, chính sách của Nhà nước đã góp phần phát triển giáo dục toàn diện ở các bậc học, cấp học. Mô hình trường học bán trú không mới, nhưng ở Yên Bái, cái mới là ở khâu tổ chức, nó được coi là điều kiện cơ bản ban đầu quyết định đến chất lượng dạy và học ở các trường học trên địa bàn tỉnh, nhất là đối với vùng dân tộc khó khăn.
Mô hình trường Phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT) đã làm thay đổi căn bản diện mạo giáo dục dân tộc thiểu số tại tỉnh Yên Bái. Toàn tỉnh đã có 38 trường PTDTBT trong đó có 9 trường bậc tiểu học, 14 trường bậc trung học cơ sở, 15 trường tiểu học và trung học cơ sở; số lớp ghép là 111, giảm 24 lớp so với thời điểm bắt đầu triển khai Nghị quyết.
Mô hình trường PTDTBT giúp số lượng học sinh bán trú tăng nhanh, việc duy trì sĩ số rất thuận lợi, khắc phục được tình trạng học sinh nghỉ học, bỏ học và là yếu tố quan trọng hoàn thành công tác phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Tính đến tháng 3-2013 có 10.210 em học sinh được hưởng chế độ chính sách đối với học sinh bán trú, tăng 5.214 học sinh, bằng 204% so với năm 2010, tăng 156% so với số lượng học sinh dự kiến năm 2013. Hiện nay, 69,5% học sinh trong các trường phổ thông ở Yên Bái là diện học sinh bán trú.
Chất lượng giáo dục vùng khó khăn đã chuyển biến khá rõ nét, tỷ lệ học sinh khá, giỏi các trường PTDTBT bậc trung học cơ sở tăng từ 14% lên 18%; tỷ lệ học sinh yếu, kém giảm từ 11% xuống còn 6,5%. Đối với bậc tiểu học, kết quả môn Toán, học sinh khá giỏi tăng từ 34% lên 37%, học sinh yếu giảm từ 12% xuống còn 10%, môn Tiếng Việt, học sinh khá giỏi tăng từ 30% lên 34%, học sinh yếu duy trì ở mức 10%. Tỷ lệ học sinh bỏ học giảm đáng kể: bậc tiểu học giảm từ 0,2% xuống 0,08%, bậc trung học cơ sở giảm từ 1% xuống 0,8%. Tỷ lệ học sinh nữ người dân tộc đến lớp tăng nhanh ở các cấp học.
Đội ngũ giáo viên yên tâm công tác, học hỏi bồi dưỡng bổ sung kiến thức, nâng cao chất lượng giảng dạy. Đến nay, giáo viên đã cơ bản đủ về số lượng, bảo đảm về cơ cấu, chất lượng đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện. Tổng lao động hiện có của 38 trường phổ thông dân tộc bán trú là 1.439 người, công tác chăm sóc sức khỏe cho học sinh bán trú đã được quan tâm nhiều hơn. Hiện có 33 nhân viên y tế được bố trí tại 33 trường, có 15 nhân viên phục vụ. Các trường phổ thông dân tộc bán trú đã được tỉnh hỗ trợ ngân sách để ký hợp đồng lao động với 192 nhân viên cấp dưỡng.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị được quan tâm bảo đảm về cơ bản cho học sinh ăn ở và học tập. Trong ba năm, toàn tỉnh đã xây dựng mới 39 phòng học, 221 phòng ở, 19 bếp, 16 công trình vệ sinh, 11 công trình nước sạch; san tạo mặt bằng cho 7 đơn vị và đầu tư các hạng mục phụ trợ cho 8 đơn vị. Đầu tư giường tầng, tủ học sinh, thiết bị nhà bếp cho 19 trường, bàn ghế học sinh, giáo viên cho 12 trường. Kinh phí được cấp từ nguồn đầu tư xây dựng cơ bản và các nguồn xã hội hóa. Năm học 2012 - 2013, toàn tỉnh có 596 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên, dạy nghề và đại học. Tổng số trường các cấp học là 577 trường; 6.772 nhóm, lớp; 182.350 trẻ mầm non, học sinh, học viên. Mạng lưới trường, lớp đã phủ kín tới thôn bản, với hình thức đa dạng hơn. Kết quả phổ cập giáo dục tiếp tục được giữ vững và nâng cao về chất lượng. Tỉnh Yên Bái đã đạt chuẩn chống tái mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học năm 1997, đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2007 và đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi năm 2010.
Môi trường nội trú giúp cho việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cả về thể chất và kỹ năng sống cho học sinh vùng cao. Đã có 34/38 trường có diện tích đất để học sinh trồng rau, củ, quả,…; 20/38 trường đã tổ chức cho học sinh chăn nuôi nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng bữa ăn hằng ngày và rèn kỹ năng lao động, xây dựng nền nếp sinh hoạt tốt. Một số trường như PTDTBT tiểu học và trung học cơ sở Tà Xi Láng (huyện Trạm Tấu), trường PTDTBT trung học cơ sở Phong Dụ Thượng (huyện Văn Yên), trường PTDTBT trung học cơ sở Nậm Lành (huyện Văn Chấn) đã xây dựng hệ thống biogas để sử dụng năng lượng chất đốt phục vụ cho sinh hoạt. Kết quả giáo dục, đào tạo ở các trường PTDTBT đã góp phần quan trọng trong việc tạo nguồn cán bộ và phát triển nguồn nhân lực cho địa phương, đồng thời làm thay đổi nhận thức của cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành và nhân dân các dân tộc thiểu số về giáo dục. Qua đó, mô hình trường PTDTBT đã tạo được niềm tin trong nhân dân về chính sách dân tộc, chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển.
Hướng đi mới
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình triển khai nhân rộng mô hình trường PTDTBT, ngành giáo dục Yên Bái vẫn gặp nhiều khó khăn: cơ sở vật chất chưa đáp ứng đủ nhu cầu ăn, ở, sinh hoạt của học sinh, việc định mức giáo viên hiện tại chưa phù hợp với tính chuyên biệt của loại hình trường PTDTBT, công tác bồi dưỡng tiếng dân tộc cho giáo viên chưa có điều kiện để tổ chức bài bản; sự phối hợp giữa gia đình - nhà trường chưa được thường xuyên, công tác quản lý học sinh bán trú còn một số bất cập,... đang là rào cản trong phát triển căn bản và toàn diện sự nghiệp giáo dục - đào tạo của Yên Bái. Vì thế, trong tương lai, để tiếp tục đẩy mạnh, phát huy hiệu quả công tác giáo dục vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt từ mô hình trường PTDTBT, tỉnh Yên Bái đã xác định hướng đi cụ thể với một số biện pháp sau:
Một là, tăng cường công tác tuyên truyền trong các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân về sự cần thiết phải củng cố, phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc bán trú, về vai trò của mô hình này trong việc tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số và nguồn nhân lực cho địa phương, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục qua việc huy động các tập thể, cá nhân, các tổ chức đoàn thể xã hội tích cực tham gia ủng hộ, đóng góp để xây dựng cơ sở vật chất và các trang thiết bị phục vụ cho học sinh bán trú.
Hai là, tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá kịp thời tìm ra nguyên nhân, vướng mắc trong công tác giáo dục vùng cao. Từ đó, tham mưu, đề xuất với các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương và phối hợp với các ngành, đoàn thể nhằm tìm cách tháo gỡ. Đặc biệt, cần tăng cường quỹ đất cho các trường vùng cao, nhất là các trường phổ thông dân tộc nội trú và trường phổ thông dân tộc bán trú nhằm đáp ứng quỹ đất phục vụ tăng gia sản xuất, nâng cao đời sống cho học sinh nội trú và bán trú.
Ba là, tiếp tục rà soát, phát triển mạng lưới trường phổ thông dân tộc nội trú và trường phổ thông dân tộc bán trú; điều chỉnh quy hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh giai đoạn 2010 - 2020; bổ sung, điều chỉnh Đề án “Xây dựng trường PTDTBT tỉnh Yên Bái giai đoạn 2010 - 2015”; phấn đấu đến năm 2015, 100% các trường phổ thông đủ điều kiện theo quy định được chuyển đổi thành trường phổ thông dân tộc bán trú.
Bốn là, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các trường PTDTBT. Ưu tiên bố trí nguồn lực để đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng nhà công vụ cho giáo viên, nhà ở bán trú, bếp ăn tập thể, các công trình vệ sinh cho học sinh; đẩy mạnh công tác xã hội hóa nhằm huy động các nguồn lực xã hội để hỗ trợ học sinh bán trú.
Năm là, nâng cao chất lượng giáo dục, thực hiện tích cực việc luân chuyển giáo viên để giải quyết chính sách đối với giáo viên ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng, nâng cao năng lực tổ chức, quản lý tại trường phổ thông dân tộc nội trú hoặc bán trú. Tăng cường chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy và học, đồng thời mở rộng các hoạt động của các nhà trường. Thường xuyên kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện chế độ chính sách đối với học sinh tại các trường PTDTBT và các trường có học sinh bán trú được hưởng chính sách hỗ trợ của Nhà nước./.
Khi lý trí chế ngự tình cảm  (16/06/2013)
Tổng thống Venezuela thăm Việt Nam trong năm nay  (16/06/2013)
Hội nghị Hình thành Thế giới lần thứ 5 sẽ tổ chức tại Việt Nam  (16/06/2013)
Tân Tổng thống Iran Hassan Rouhani  (16/06/2013)
Tặng Kỷ niệm chương Vì hòa bình cho Tổng lãnh sự Singapore  (16/06/2013)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm