Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới
Nhà nước pháp quyền
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ khi ra đời đến nay, sau 67 năm xây dựng và hoàn thiện, Nhà nước ta ngày càng thể hiện rõ những phẩm chất và đặc trưng của một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đó là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp, được xây dựng, tổ chức và hoạt động trên cơ sở những quy định của hiến pháp, pháp luật và vận hành trong khuôn khổ hiến pháp, pháp luật. Hiến pháp và hệ thống pháp luật của chúng ta ngày càng được xây dựng, bổ sung và hoàn thiện để không những đáp ứng kịp thời những yêu cầu phong phú và sinh động của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mà còn để phù hợp với hệ thống công ước, thông lệ và pháp luật quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của đất nước.
Nhà nước pháp quyền là một thành tựu to lớn của lịch sử phát triển lâu dài của nhân loại. Thực vậy, trong lịch sử tư tưởng nhân loại, tư tưởng về nhà nước pháp quyền xuất hiện từ thời cổ đại, gắn liền với tên tuổi các nhà tư tưởng Xô-crát, Đê-mô-crít, Pla-tôn, Ari-xtốt, Xi-xê-rôn,... Tuy nhiên, những tư tưởng về nhà nước pháp quyền được phát triển rực rỡ nhất trong thời kỳ cách mạng tư sản vào các thế kỷ XVII - XVIII và gắn liền với tên tuổi của các nhà tư tưởng châu Âu, như J.Lốc-cơ, S.L.Mông-téc-xki-ơ, J.J.Rút-xô, I.Kan-tơ, G.W.Ph.He-ghen,... và các nhà tư tưởng châu Mỹ, như T.Giep-phec-xơn, T. Pên, Gi. A đam, Gi. Mê-đi-sơn,...
Trên cơ sở những tư tưởng vĩ đại của các nhà tư tưởng và thực tiễn vận động của lịch sử, nhà nước pháp quyền đã từng bước hình thành, phát triển ngày càng mạnh mẽ và rộng khắp ở nhiều quốc gia phương Tây. Nhìn lại tiến trình phát triển của nhà nước pháp quyền trong lịch sử, ta có thể nêu một số đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền như sau: Nhà nước pháp quyền là một tổ chức chính trị, là cơ quan quyền lực của nhân dân; trong nhà nước pháp quyền pháp luật mang tính tối thượng, pháp luật đó thể hiện ý chí chung của nhân dân và vì lợi ích của nhân dân; nhà nước pháp quyền bảo đảm quyền tự do, dân chủ của nhân dân; mọi hoạt động của nhà nước pháp quyền đều nhằm thực hiện quyền lợi của nhân dân và nhân dân phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà nước; quyền lực nhà nước được tổ chức phù hợp bảo đảm lợi ích của nhân dân và có chế độ giám sát độc lập; trong nhà nước pháp quyền tòa án hoạt động độc lập nhằm bảo đảm tính minh bạch và nghiêm minh của pháp luật,...
Thực tế cho thấy, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước riêng biệt mà chỉ là phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước hiện đại, trong đó, điều cốt yếu là hạn chế quyền lực của nhà nước và tăng cường quyền lực của nhân dân bằng hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện. Có thể nói, nhà nước pháp quyền chính là cách thức tổ chức của nền dân chủ. Đó thực sự là tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng của nền dân chủ phát triển ở trình độ cao. Trong nhà nước pháp quyền, tính tối thượng của pháp luật được tôn trọng, mọi hành vi, hoạt động, quan niệm, tư tưởng chính trị, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật,... của mọi tổ chức và cá nhân đều phải tuân theo Hiến pháp, pháp luật và trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật.
Chính vì thế, không nên cho rằng nhà nước pháp quyền là nhà nước tư sản, mặc dù, đa số nhà nước ở các nước tư bản phát triển hiện nay đều là nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, thực tế trên thế giới hiện đang cùng tồn tại và phát triển hai “mô hình” nhà nước pháp quyền. Đó là, nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Và, mặc dù còn một số hạn chế, chưa hoàn thiện, nhưng có thể nhận thấy tính ưu việt, hơn hẳn của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa so với nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa. Do không phải là một kiểu nhà nước nên cũng không thể có mô hình chung của nhà nước pháp quyền cho mọi quốc gia. Mỗi quốc gia khi xây dựng nhà nước pháp quyền của mình, cùng với việc kế thừa, phát triển những giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, phải đặc biệt chú ý tới đặc trưng lịch sử, văn hóa và chế độ chính trị của mình. Nghĩa là, các quốc gia khác nhau về chế độ chính trị, bản sắc văn hóa, đặc trưng lịch sử,... cũng sẽ có các mô hình nhà nước pháp quyền khác nhau. Đây chính là yếu tố tạo nên tính phức tạp, đa dạng và phong phú của nhà nước pháp quyền trong thời đại ngày nay. Tuy nhiên, dù có khác biệt như thế nào, thì nhà nước pháp quyền trong thời đại ngày nay để tồn tại và phát triển được với đúng nghĩa của mình, nó phải thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Tư tưởng của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền thấm đẫm trong tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình Người lãnh đạo nhân dân ta xây dựng chính quyền non trẻ và xây dựng đất nước. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đó là, dân là chủ, mọi quyền lực của Nhà nước đều thuộc về nhân dân; đó là, sự ban hành và từng bước hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên được Đảng ta sử dụng chính thức trong Văn kiện Hội nghị Trung ương 2 khóa VII và được chính thức sử dụng trong Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994). Tại Hội nghị này, Đảng ta đã xác định rõ nhiệm vụ và phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và đã được các Đại hội VIII, IX, X và XI của Đảng tiếp tục phát triển và hoàn thiện.
Tại Đại hội VIII, Đảng ta nêu ra 5 quan điểm cơ bản xây dựng Nhà nước pháp quyền và Đại hội IX của Đảng đã chỉ ra một số đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại Đại hội X, Đảng ta chỉ rõ: Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện thể chế giám sát, kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.
Trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Về tổng thể, có thể nêu một số đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là: Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mọi quyền lực của nhà nước đều thuộc về nhân dân; Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, vì hạnh phúc của con người; Tuyệt đối tuân theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính tối cao của pháp luật; Quyền lực của nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về lập pháp, hành pháp và tư pháp; Nhà nước chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình và bảo đảm cho công dân thực hiện nghĩa vụ trước Nhà nước và xã hội; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; Thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị hợp tác, bình đẳng với các nước; Tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước quốc tế mà mình tham gia ký, phê chuẩn,...
Vấn đề xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự trong sạch, vững mạnh của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân được Đại hội XI của Đảng đặc biệt quan tâm. Đảng ta coi đây là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một vấn đề trọng tâm nên được Đảng ta đề cập đến trong tất các các văn kiện quan trọng của Đại hội XI. Nhất là trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) là một văn kiện quan trọng có ý nghĩa chiến lược, định hướng cho sự phát triển lâu dài của đất nước trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Khi nói về những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, Cương lĩnh đã khẳng định: “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Cương lĩnh cũng chỉ rõ, một trong tám mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời gian qua, Cương lĩnh đã nêu ra những định hướng lớn về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong suốt thời kỳ quá độ. Đó là: Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
Đây chính là những định hướng lớn mang tính nguyên tắc để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong suốt thời kỳ quá độ lâu dài lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đáp ứng những yêu cầu đang đặt ra của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế là một nhân tố mang ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Cần tập trung xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng bảo đảm thực sự trong sạch, vững mạnh, thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phải chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân; đồng thời, có cơ chế để người dân thực hiện tốt nhất trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Cần có cơ chế phù hợp giữa nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Có cơ chế phù hợp bảo đảm mở rộng dân chủ, đồng thời, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển đất nước.
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay để thực sự xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tinh thần Đại hội XI của Đảng cần tập trung hoàn thiện chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội của Nhà nước phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa. Không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, trong đó tập trung: thứ nhất, thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường; thứ hai, hoàn thiện bộ máy nhà nước, tạo bước chuyển mạnh về cải cách hành chính. Đó là, đẩy mạnh cải cách lập pháp, hành pháp, tư pháp; tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh, bảo đảm quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả; hoàn thiện cơ chế phân cấp trong quản lý kinh tế và xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân;... thứ ba, đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; thứ tư, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng bộ máy nhà nước.
Để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ một số nhiệm vụ và giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo. Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, kỷ cương, kỷ luật. Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế và thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực của Nhà nước đều thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đồng thời, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 phù hợp với tình hình mới.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm để Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hoàn thiện cơ chế bầu cử Quốc hội. Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội và hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội. Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật. Thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ quyết định và giám sát các vấn đề quan trọng của đất nước. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả, tổ chức tinh gọn, hợp lý; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan chính phủ. Thực hiện phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phương. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính. Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp. Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp; nghiên cứu tổ chức chính quyền đô thị, hải đảo,...
Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi cán bộ, công chức. Tăng cường tính công khai, minh bạch của hoạt động công vụ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước. Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành tốt nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân.
Thứ tư, tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí. Đây là một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Phân cấp, quy định rõ chức năng cho các ngành, các cấp trong phòng, chống tham nhũng. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công, doanh nghiệp nhà nước. Công khai, minh bạch về cơ chế, chính sách, các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm từ ngân sách công, quản lý và sử dụng đất đai, tài sản công, tiếp nhận, bổ nhiệm cán bộ. Thực hiện hiệu quả việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Xử lý nghiêm cán bộ tham nhũng, tịch thu tài sản từ tham nhũng. Có cơ chế khuyến khích, bảo vệ người tham gia đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Phát huy vai trò của nhân dân, của cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Triển khai những quan điểm quan trọng của Đại hội XI của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đã ra Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Hội nghị Trung ương 5 khóa XI đã thảo luận và Kết luận về tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và những nội dung cơ bản về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và Kết luận về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Để hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Đảng ta phải thực sự trong sạch, vững mạnh. Nghị quyết về những vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay chính là một bước đột phá có ý nghĩa quyết định sự thành công của quá trình tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong giai đoạn hiện nay chính là một bước hướng tới làm trong sạch đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy công quyền và hệ thống chính trị. Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong các hoạt động công vụ và tài chính công. Tham nhũng đã trở thành một vấn nạn của xã hội ta, nó xuất hiện ở nhiều cơ quan công quyền và trở thành nỗi nhức nhối của cả xã hội. Không ngăn chặn, đẩy lùi được tham nhũng, lãng phí sẽ làm mất lòng tin của nhân dân, suy yếu nội bộ Đảng, bộ máy nhà nước sẽ thoái hóa, biến chất không còn là của nhân dân, vì nhân dân. Vì vậy, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong giai đoạn hiện nay là thiết thực thúc đẩy cải cách hành chính nhằm kịp thời lành mạnh hóa nền hành chính quốc gia, trong sạch hóa đội ngũ cán bộ, công chức, đẩy mạnh thực thi pháp luật, đề cao vai trò điều chỉnh của pháp luật trong đời sống xã hội.
Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là một nhu cầu cấp thiết của sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước khi nước ta bước vào một thời kỳ phát triển mới trong bối cảnh mới. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử khách quan nhưng để đạt được kết quả như mong muốn, chúng ta phải chủ động, tích cực phát huy sức mạnh và động lực của các nhân tố chủ quan. Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 chính là mở đường cho một thời kỳ phát triển mới của đất nước. Vì vậy, sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cần tập trung vào những nội dung cốt yếu: Thể chế hóa, cụ thể và sâu sắc hơn chủ trương phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động các lực lượng xã hội phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước; Khẳng định và làm rõ hơn vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; Phát huy nhân tố con người, tôn trọng con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân; Xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; Bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.../.
Nền kinh tế Mỹ: “Vách đá” đi qua, nợ nần ở lại  (10/01/2013)
Khai mạc Hội thảo Lý luận lần thứ nhất giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào  (10/01/2013)
Khai mạc Hội thảo Lý luận lần thứ nhất giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào  (10/01/2013)
Phải chăng nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý là quan trọng nhất?  (10/01/2013)
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên