VCCI: Nỗ lực đồng hành cùng doanh nghiệp
Thể hiện mạnh mẽ tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp
Trong phát triển kinh tế - xã hội, doanh nghiệp là lực lượng chủ lực. Kinh tế đất nước phát triển ổn định, bền vững hay không phần lớn phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp. Thực hiện nhiệm vụ tập hợp, nghiên cứu thực trạng và kiến nghị với Đảng và Nhà nước các vấn đề về pháp luật, chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải thiện môi trường kinh doanh; đề xuất các giải pháp xử lý vướng mắc, hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến doanh nghiệp, môi trường kinh doanh và quan hệ lao động, trong thời gian qua, VCCI đã có nhiều nỗ lực tập hợp ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp, phản ánh với các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Đồng thời, VCCI cũng tích cực đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp tham gia vào quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến doanh nghiệp, hoạt động kinh doanh và quan hệ lao động.
Thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao theo Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16-5-2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, trong năm 2016, VCCI đã tập hợp được trên 421 kiến nghị của các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp và gửi tới các bộ, ngành, địa phương để trả lời, giải quyết. Kết quả các bộ, ngành, địa phương đã xử lý, giải quyết, trả lời 380 kiến nghị (đạt tỷ lệ 90,3%), còn 43 kiến nghị khác liên quan đến đề nghị sửa đổi, bổ sung pháp luật, chính sách và các vấn đề chung đã được các bộ, ngành ghi nhận và tiếp tục nghiên cứu, giải quyết. Tiếp đó, để chuẩn bị sơ kết 1 năm thực hiện Nghị quyết 35/NQ-CP, trong nửa đầu năm 2017, VCCI đã tập hợp thêm 188 kiến nghị mới từ doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp và đã chuyển các bộ, ngành, địa phương giải quyết. Các bộ, ngành đã xử lý, giải quyết, trả lời 98 kiến nghị (đạt tỷ lệ 52,1%), còn 90 kiến nghị chưa trả lời, trong đó có một số kiến nghị thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ.
Các nội dung kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào các vấn đề về cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp; bảo đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận các nguồn lực và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp; tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo; giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.
Nội dung cải cách hành chính được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm. Tình trạng doanh nghiệp than phiền về việc các thủ tục hành chính chậm trễ, gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp vẫn còn nhiều. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức làm công tác giải quyết thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, nhà đầu tư có trình độ, năng lực còn hạn chế; tình trạng gây phiền hà, nhũng nhiễu còn diễn ra, gây bức xúc cho doanh nghiệp.Nhiều địa phương vẫn chưa thực hiện đúng yêu cầu thanh tra, kiểm tra 1 lần/năm như Nghị quyết 35 đã đề ra. Có doanh nghiệp một năm phải tiếp 6-7 đoàn thanh tra, kiểm toán, chưa kể các đợt kiểm tra không chính thức.
Các ý kiến, kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp đề xuất việc cải tiến, đơn giản hóa thủ tục thuế, hải quan, tiếp cận đất đai, thanh tra, kiểm tra, môi trường; tinh thần, thái độ phục vụ của các công chức làm việc trong lĩnh vực trên; yêu cầu các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức phải tuân thủ pháp luật, đối xử bình đẳng với các doanh nghiệp. Cộng đồng doanh nghiệp mong muốn bộ máy hành chính các cấp nâng cao tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ, thông thoáng về thủ tục nhằm giảm bớt chi phí tuân thủ của doanh nghiệp, góp phần tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp nói riêng, nền kinh tế đất nước nói chung.
Về bảo đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận các nguồn lực và cơ hội kinh doanh, doanh nghiệp đề nghị các cơ quan chức năng có thẩm quyền thực hiện nghiêm túc việc tham vấn các đối tượng chịu tác động và tham vấn chuyên gia trong quá trình xây dựng, thực hiện pháp luật, chính sách, nhất là những chính sách tác động trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp; nâng cao chất lượng công tác pháp chế của các bộ, ngành, địa phương trong xây dựng pháp luật, cơ chế, chính sách. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng thể hiện mối quan ngại rằng còn sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định pháp luật, còn tình trạng phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Giảm chi phí kinh doanh là động lực thường xuyên của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Bên cạnh nỗ lực cải tiến tổ chức, quản lý, tiết giảm chi phí của mỗi doanh nghiệp, cộng đồng doanh nghiệp mong muốn các biện pháp hỗ trợ giảm chi phí kinh doanh từ phía Nhà nước như đảm bảo mặt bằng lãi suất phù hợp; giảm bớt các mức đóng góp của người sử dụng lao động; giảm giá thuê đất, giảm mức thu phí tại một số dự án BOT cũng như các loại phí, lệ phí khác.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh cũng là nội dung được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm. Các doanh nghiệp kiến nghị hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp khi làm thủ tục phá sản doanh nghiệp; trong thi hành án dân sự, nhất là khi có tranh chấp hợp đồng giữa doanh nghiệp và các đối tác; có chế tài đủ mạnh để răn đe các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm bản quyền sở hữu trí tuệ; bảo vệ doanh nghiệp trong quan hệ lao động. Nhiều doanh nghiệp phản ánh về sự chồng chéo trong thanh tra, kiểm tra không đúng quy định, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của doanh nghiệp.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng đề xuất các biện pháp tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo; phát huy hiệu quả Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa...
Phối hợp với các địa phương cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh
Bên cạnh việc phản ánh ý kiến, kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp đến cơ quan có thẩm quyền của Đảng, Nhà nước, VCCI còn chủ động phối hợp với các địa phương trong cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Hơn 10 năm qua, năm nào VCCI cũng phối hợp với dự án sáng kiến cạnh tranh Việt Nam (là dự án do cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ - USAID), công bố Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Đây là chỉ số đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh, thành của Việt Nam về chất lượng điều hành kinh tế và xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc phát triển doanh nghiệp dân doanh. Qua nhiều lần hoàn thiện, bổ sung tiêu chí thành phần, nâng cao tính khách quan, trung thực trong khảo sát, chỉ số PCI phản ánh tương đối khách quan và trung thực về môi trường đầu tư và kinh doanh của các địa phương; phản ánh được thực trạng điều hành kinh tế của chính quyền các tỉnh, các điểm mạnh điểm yếu, cũng như xác định được chính quyền tỉnh nào có chất lượng điều hành kinh tế tốt và các doanh nghiệp hài lòng. Từ đó, chính quyền tỉnh sẽ nhận biết được môi trường kinh doanh của mình hiện đang còn những yếu kém gì cần phải khắc phục để đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp và trở nên cạnh tranh hơn so với các tỉnh, thành khác của Việt Nam. Vì thế, PCI được xem là “tiếng nói” quan trọng của các doanh nghiệp dân doanh về môi trường kinh doanh địa phương, là kênh thông tin tham khảo tin cậy về địa điểm đầu tư, là một động lực cải cách quan trọng đối với môi trường kinh doanh cấp tỉnh.
Thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP, VCCI đã tổ chức 02 hội nghị phổ biến, quán triệt Nghị quyết 35/NQ-CP và ký cam kết với các địa phương về tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, qua đó đã hoàn thành việc ký cam kết với tất cả 63 UBND các tỉnh, thành phố trong cả nước. Các tỉnh, thành phố đã có những cam kết được lượng hóa cụ thể như chỉ tiêu phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, các chỉ tiêu về cải cách hành chính trong các lĩnh vực cụ thể như thời gian đăng ký thành lập doanh nghiệp, thời gian giải quyết thủ tục đầu tư, cấp phép xây dựng, cấp giấy chứng nhận sử dụng đất, thủ tục thuế, hải quan, áp dụng công nghệ thông tin, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI… Các chỉ tiêu về thủ tục thời gian cam kết giảm từ 30- 50%.
Thực hiện các cam kết đã tạo chuyển biến tích cực trong tư tưởng, nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp chính quyền địa phương, đặc biệt về lề lối, tác phong, thái độ phục vụ. Công tác phát triển doanh nghiệp, thu hút đầu tư đã được các địa phương quan tâm. Hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp như đào tạo, xúc tiến thương mại, bảo lãnh tín dụng, vườn ươm doanh nghiệp… được triển khai và nhận được phản ứng tích cực từ cộng đồng doanh nghiệp.
Công tác cải cách thủ tục hành chính của nhiều địa phương đã đạt được kết quả tốt, một số thủ tục hành chính vượt chỉ tiêu cam kết đã ký với VCCI… Mô hình Trung tâm hành chính công được nhiều tỉnh/thành phố tổ chức nhằm giảm thiểu thời gian đi lại và sự phiền hà cho người dân và doanh nghiệp. Đặc biệt như tỉnh Quảng Ninh đã xây dựng và vận hành Trung tâm hành chính công đến cấp huyện. Đa số các tỉnh, thành phố tổ chức bộ phận tiếp nhận và trả hồ sơ hành chính tập trung ở một địa điểm. Tất cả các địa phương đều triển khai cơ chế một cửa và một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp.
Việc tổ chức đối thoại giữa các cấp chính quyền với doanh nghiệp được đa số các địa phương quan tâm. Theo khảo sát của VCCI, 57% doanh nghiệp cho biết các tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp hoạt động có tổ chức các buổi gặp mặt, đối thoại công khai với doanh nghiệp, 58% cho biết các tỉnh, thành phố có thành lập và công khai đường dây nóng, hỏi đáp trực tuyến trên Cổng thông tin điện tử để tiếp nhận phản ánh, hướng dẫn, giải đáp cho doanh nghiệp.
Nhiều địa phương đã có những sáng tạo trong tổ chức đối thoại với doanh nghiệp, đạt được hiệu quả mong muốn và được cộng đồng doanh nghiệp hưởng ứng… Gặp gỡ, đối thoại định kỳ với cộng đồng doanh nghiệp giúp giải quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, tạo không khí thân thiện giữa chính quyền và doanh nghiệp. Đồng thời, các địa phương cũng lắng nghe được ý kiến doanh nghiệp góp ý các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của địa phương, từ đó, nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo, điều hành.
Cùng với VCCI, các hiệp hội doanh nghiệp cũng tích cực vào cuộc, phối hợp với chính quyền địa phương cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Trên cả nước hiện có gần 460 hiệp hội doanh nghiệp hoạt động, trong đó có 130 hiệp hội doanh nghiệp đa ngành, hiệp hội ngành nghề hoạt động trên phạm vi toàn quốc và khoảng 330 hiệp hội hoạt động ở cấp vùng, tỉnh/ thành phố và một số ít hoạt động ở cấp huyện/ thị xã. Theo đánh giá của các cơ quan chính quyền địa phương, về hoạt động phối hợp với chính quyền tổ chức đối thoại với doanh nghiệp, có khoảng 3/4 số hiệp hội doanh nghiệp đã thực hiện việc này ở mức độ “tốt”, 21% ở mức độ trung bình và khoảng 5 % ở mức độ yếu; hoạt động tham gia phản biện chính sách của các doanh nghiệp ở cấp địa phương được chính quyền đánh giá ở mức độ “tốt” cho 71% số hiệp hội doanh nghiệp, mức độ “trung bình” cho 24% số hiệp hội được khảo sát. Có thể thấy các hiệp hội doanh nghiệp đã phát huy tốt vai trò của mình đối với hội viên, nói lên tiếng nói của hội viên với các cơ quan chức năng.
Tiếp tục đồng hành cùng doanh nghiệp
Sự đồng hành tích cực của VCCI đã góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp có những bước phát triển quan trọng. Tốc độ tăng trưởng về số lượng doanh nghiệp bình quân trong giai đoạn 2007-2015 đạt 14,8%/năm. Nếu tính cả số doanh nghiệp đăng ký thành lập, ngừng hoạt động, giải thể và quay trở lại hoạt động trong năm 2016, thì đến 31-12-2016 ước có 546.281 doanh nghiệp đang hoạt động. Ngoài mức tăng trưởng đều về số lượng doanh nghiệp đang hoạt động, các yếu tố tích cực khác là chỉ số tăng trưởng dương về tổng nguồn vốn, số lượng lao động tương đối ổn định.
Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn có nhiều tín hiệu cho thấy tính không bền vững trong phát triển doanh nghiệp Việt Nam, nhất là trên các mặt năng lực cạnh tranh, hiệu quả sử dụng lao động, hiệu quả sử dụng nguồn vốn. Tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ vẫn còn cao Hiệu suất sinh lợi trên tài sản của các doanh nghiệp trong nền kinh tế có xu hướng giảm. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới tuy có tăng nhưng số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể bằng khoảng ½ so với số lượng doanh nghiệp mới thành lập. Quy mô doanh nghiệp không có nhiều cải thiện, số lao động trung bình trên một doanh nghiệp là khoảng 30 người - thấp hơn rất nhiều so với tiêu chí doanh nghiệp nhỏ (dưới 50 lao động).
Trong thời gian tới, VCCI tiếp tục nỗ lực đồng hành cùng doanh nghiệp, thực hiện các nhóm giải pháp đã được đề ra tại Nghị quyết số 35 của Chính phủ trên cơ sở các đề xuất và kiến nghị của các doanh nghiệp với một số trọng tâm sau:
Thứ nhất, tiến hành khảo sát, đánh giá độc lập về chất lượng thực hiện thủ tục hành chính, đưa ra các khuyến nghị với Chính phủ. Đặc biệt là tình trạng nhũng nhiễu khi giải quyết thủ tục cho doanh nghiệp, các doanh nghiệp thường phải trả các chi phí không chính thức khi làm thủ tục cấp mặt bằng sản xuất kinh doanh, tiếp đón thanh tra, kiểm tra, thủ tục cấp giấy phép kinh doanh có điều kiện. VCCI cần tiếp tục triển khai nghiên cứu độc lập và toàn diện để có bức tranh tổng thể hơn về chi phí không chính thức này. Tiến hành nghiên cứu xếp hạng tín nhiệm của cộng đồng doanh nghiệp đối với các bộ, ngành và địa phương.
Thứ hai, nâng cao hơn nữa chất lượng, uy tín của Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, thông qua đó, khuyến khích các địa phương cải cách công tác quản lý, điều hành, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động theo pháp luật của doanh nghiệp. Đẩy mạnh hỗ trợ, hướng dẫn các địa phương thực hiện cải thiện chỉ số Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh thông qua hội thảo, tọa đàm, hướng dẫn về các nội dung của Chỉ số, phương pháp khảo sát, thu thập dữ liệu, những hạn chế, yếu kém của mỗi địa phương và giải pháp khắc phục.
Thứ ba, tổ chức thu thập ý kiến phản biện chính sách, những vướng mắc, khó khăn trong thực hiện thủ tục hành chính của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư để phản ánh với cơ quan có thẩm quyền xem xét, tháo gỡ kịp thời và công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng; đồng thời tập hợp báo cáo Chính phủ, Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính Chính phủ. Tập hợp, rà soát, kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền loại bỏ các quy định cho phép các cơ quan nhà nước can thiệp quá sâu vào các thị trường để bảo đảm môi trường kinh doanh minh bạch.
Thứ tư, phối hợp với các bộ, cơ quan, các hiệp hội doanh nghiệp thiết lập các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng chiến lược cạnh tranh, áp dụng khoa học công nghệ, nâng cao năng suất, xây dựng thương hiệu, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội nhằm từng bước cải thiện trình độ kinh doanh và năng lực cạnh tranh của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ năm, phối hợp với các bộ, cơ quan, hiệp hội doanh nghiệp để hỗ trợ doanh nghiệp trong việc xây dựng và triển khai thực hiện chương trình phát triển bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng cường hội nhập quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam; phối hợp với các bộ, ngành xây dựng và triển khai chương trình nâng cao năng lực hoạt động cho các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam./.
Tỉnh Thái Nguyên chú trọng triển khai các công trình, dự án trọng điểm  (14/09/2017)
Hội nghị thượng đỉnh BRICS lần thứ 9: Tham vọng và hiện thực  (13/09/2017)
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ tiếp các doanh nghiệp hàng đầu Thụy Sĩ  (13/09/2017)
Việt Nam luôn coi trọng phát triển quan hệ hợp tác với Azerbaijan  (13/09/2017)
- Tỉnh Yên Bái nâng cao chỉ số hạnh phúc cho người dân: Từ nghị quyết đến thực tiễn
- Vai trò của Hội Xuất bản Việt Nam trong việc phát triển ngành xuất bản và nguồn nhân lực ngành xuất bản
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 2)
- Nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên trong Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương
- Một số giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển đổi số tại các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập ở Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên