Cống hiến trọn đời vì sự nghiệp khai mở dân trí và giải phóng dân tộc
Tham dự Lễ kỷ niệm có Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân; Nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh; các đồng chí nguyên Chủ tịch Quốc hội: Nguyễn Văn An, Nguyễn Sinh Hùng; Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng; Bí thư Thành ủy Hà Nội Hoàng Trung Hải…
Cụ Nguyễn Văn Tố sinh ngày 05-6-1889 trong một gia đình có truyền thống Nho học, tại làng Đông Thành, nay là phố Bát Sứ, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị ngoại xâm thống trị, Nguyễn Văn Tố đã chứng kiến nhiều phong trào đấu tranh yêu nước do các văn thân, sĩ phu lãnh đạo, như phong trào Duy Tân (1906-1908); vụ “Hà Thành đầu độc” (1908), phong trào chống thuế ở Trung kỳ... tất cả đều bị đàn áp dã man, bị dìm trong biển máu. Từ thực tiễn lịch sử đó, Nguyễn Văn Tố đã sớm tiếp thu truyền thống yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc.
Hấp thụ những tinh hoa của nền văn hiến Kinh kỳ, từ nhỏ Nguyễn Văn Tố đã sớm bộc lộ tư chất thông minh, ham học, nổi tiếng là người tinh thông Nho học, giỏi ngôn ngữ Pháp và am tường văn hóa phương Tây. Năm 1905, khi mới 16 tuổi, Nguyễn Văn Tố đã đỗ đầu kỳ thi ngạch Phán sự - Thông dịch do Tòa Thống sứ Bắc Kỳ tổ chức. Năm 1906, Cụ chính thức được nhận vào làm việc tại Viện Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội (EFEO) - một cơ quan nghiên cứu khoa học xã hội của Pháp ở Đông Dương thời đó. Với trí tuệ uyên bác, chỉ sau mấy năm miệt mài nghiên cứu, Nguyễn Văn Tố đã trở thành một học giả nổi tiếng, có nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa phương Đông, văn hóa phương Tây, nhất là về lịch sử, văn hóa Việt Nam.
Năm 1921, học giả Nguyễn Văn Tố được cử làm Chủ sự Tạp chí Trí Tri của Hội Trí Tri - một tổ chức có uy tín lớn trong việc hỗ trợ, thúc đẩy việc dạy - học tiếng Pháp ở Bắc Kỳ. Đến năm 1934, Cụ đã được bầu làm Hội trưởng Hội Trí Tri.
Với tầm hiểu biết sâu rộng, phương pháp nghiên cứu khoa học, tinh thần làm việc nghiêm túc, bản lĩnh vững vàng và bao trùm lên tất cả là tinh thần yêu nước, Nguyễn Văn Tố đã khảo cứu, biên soạn nhiều công trình, bài viết có giá trị về sử học, khảo cổ học, văn học, ngôn ngữ học, văn hóa học... của dân tộc, đăng trên những tạp chí có uy tín thời đó, như: Nam Phong Tạp chí, Đông Thanh Tạp chí, Báo Thanh Nghị và đặc biệt là Tạp chí Tri Tân. Những công trình, bài viết này đã góp phần quan trọng vào việc tìm hiểu, lưu giữ, phát huy những giá trị truyền thống văn hóa, lịch sử tốt đẹp của dân tộc. Đồng thời, những trang viết về lịch sử, văn hóa dân tộc của Nguyễn Văn Tố còn khơi gợi lên tinh thần đấu tranh yêu nước của nhân dân ta.
Thực hiện chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương, đầu năm 1938, Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định thành lập một tổ chức công khai lấy tên là Hội Truyền bá học quốc ngữ (gọi tắt là Hội truyền bá quốc ngữ), nhằm vận động nhân dân tham gia phong trào xóa nạn mù chữ. Cụ Nguyễn Văn Tố và nhiều nhân sĩ, trí thức tiêu biểu, như cụ: Bùi Kỷ, Lê Thước; GS. Hoàng Xuân Hãn; đồng chí Trần Huy Liệu (chủ bút báo Tin tức), GS. Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp, Phan Thanh và một số giáo sư trường tư thục Thăng Long ... đã tham gia thành lập Hội và nhất trí cử Cụ Nguyễn Văn Tố làm Hội trưởng.
Trên cương vị Hội trưởng, Cụ Nguyễn Văn Tố đã vận động và tổ chức phong trào dạy - học chữ quốc ngữ sôi nổi trong cả nước, được các tầng lớp nhân dân tích cực hưởng ứng, tham gia. Cùng với sự nỗ lực không ngừng của các thành viên trong Hội Truyền bá quốc ngữ, từ năm 1938 đến khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Cụ Nguyễn Văn Tố đã giúp cho hơn 7 vạn người Việt Nam thoát khỏi nạn mù chữ, góp phần làm thất bại “chính sách ngu dân” của thực dân Pháp. Thông qua phong trào dạy - học chữ quốc ngữ, tinh thần yêu nước, ý thức giác ngộ cách mạng của nhân dân đã được bồi đắp và củng cố, nâng cao. Qua phong trào vận động học chữ quốc ngữ, xóa nạn mù chữ, nhiều cán bộ của Đảng đã học được những kinh nghiệm quý giá, được tôi luyện và trưởng thành, nhất là trong công tác vận động, tổ chức quần chúng.
Mặt khác, dưới sự chỉ đạo của Cụ Nguyễn Văn Tố, Hội Truyền bá quốc ngữ, với hệ thống tổ chức và thành viên rộng khắp trong cả nước, đã tạo tiền đề quan trọng cho thành công của cuộc đấu tranh diệt “giặc dốt” của chính quyền cách mạng sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công. Chính những con người, kinh nghiệm, cách làm của Hội Truyền bá quốc ngữ đã được vận dụng vào công tác “bình dân học vụ”; “Diệt giặc dốt” của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong công cuộc vừa kháng chiến, vừa kiến quốc.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nền dân chủ mới ra đời, song phải đứng trước những thách thức hết sức ngặt nghèo, bởi sự chống phá của thù trong, giặc ngoài. Với tinh thần đoàn kết dân tộc, quý trọng và kêu gọi những người có tài, có đức tham gia giúp nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trân trọng mời Cụ Nguyễn Văn Tố tham gia Chính phủ cách mạng lâm thời, đảm nhiệm cương vị Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội.
Bằng nhiệt huyết của một chí sĩ hết lòng yêu nước, yêu dân, Cụ Nguyễn Văn Tố đã tổ chức thành lập các “Hội cứu đói” ở nhiều địa phương, vận động các tầng lớp nhân dân nêu cao tinh thần tương thân tương ái, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “sẻ cơm, nhường áo”, cứu giúp những người đang bị đói.
Để giải quyết nạn đói về căn bản, cùng với những biện pháp cấp bách, cụ Nguyễn Văn Tố cùng Chính phủ động viên các tầng lớp nhân dân ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Nhờ sự chỉ đạo khẩn trương của Chính phủ, sự nỗ lực của toàn dân, nạn đói đã bị đẩy lùi, thế và lực của cách mạng ngày càng tăng, góp phần đưa cách mạng nước ta vượt qua tình thế hiểm nghèo, từng bước củng cố và phát triển. Trong thành tựu chung đó của dân tộc, có phần đóng góp xứng đáng của cụ Nguyễn Văn Tố.
Với những đóng góp quan trọng và ý nghĩa, ngày 06-01-1946, trong cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của đất nước, Cụ Nguyễn Văn Tố đã được nhân dân bầu là đại biểu Quốc hội và ngày 02-3-1946, tại Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa I, Cụ đã được bầu là Trưởng Ban Thường trực Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đọc diễn văn tại Lễ kỷ niệm, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nhấn mạnh, trong bối cảnh đất nước còn hết sức khó khăn, Trưởng Ban Thường trực Quốc hội Nguyễn Văn Tố đã cùng các thành viên trong Ban Thường trực Quốc hội đoàn kết chặt chẽ, cùng sát cánh với Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, hoạch định và chỉ đạo thực thi các chính sách đối nội, đối ngoại; thay mặt cho Quốc hội và nhân dân góp ý, đề nghị sửa đổi những sắc lệnh về các lĩnh vực kinh tế, tài chính, văn hóa, xã hội của Chính phủ (trước khi các sắc lệnh được ban hành).
Một trong những cống hiến to lớn của Cụ Nguyễn Văn Tố trên cương vị Trưởng Ban Thường trực Quốc hội là đã điều hành Quốc hội góp ý, xây dựng và thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta - đó là bản Hiến pháp năm 1946. Với những nội dung tư tưởng tiên tiến mang giá trị bền vững và sâu sắc đến tận ngày hôm nay, Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định nền độc lập, tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam; khẳng định quyền làm chủ Nhà nước của mỗi công dân, quyền và nghĩa vụ xây dựng một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Trên cương vị Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, Cụ Nguyễn Văn Tố cùng Ban Thường trực Quốc hội tích cực ủng hộ chủ trương của Chính phủ trong việc thực thi sách lược đối ngoại tạm thời hòa hoãn với Pháp để đuổi quân Tưởng và những phần tử tay sai. Cụ thể là Ban Thường trực Quốc hội do Cụ Nguyễn Văn Tố đứng đầu đã ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Hiệp định sơ bộ ngày 06-3-1946 và Tạm ước ngày 14-9-1946. Điều đó cho thấy sự đồng cảm của những tư tưởng lớn luôn gặp nhau, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cụ Nguyễn Văn Tố đã hoàn toàn thống nhất trong những quyết sách quan trọng liên quan đến vận mệnh đất nước.
Theo Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Cụ Nguyễn Văn Tố giữ chức vụ Trưởng Ban Thường trực Quốc hội 8 tháng từ tháng 3 đến tháng 11-1946, đó là thời gian khó khăn, gay cấn nhất của cách mạng Việt Nam. Với cương vị đứng đầu Quốc hội, Cụ đã cùng Ban Thường trực Quốc hội tham gia nhiều ý kiến với Chính phủ để thi hành nhiều phương sách thích hợp chăm lo đến quyền lợi quốc gia và đời sống nhân dân. Hoạt động của Quốc hội trong thời gian Cụ là Trưởng Ban Thường trực đã để lại dấu ấn sâu sắc, đã đưa ra được những quyết sách lớn vì nước, vì dân. Sự đoàn kết, ủng hộ, gắn bó của Quốc hội với Chính phủ trong giai đoạn này là một trong những bài học lớn của cách mạng Việt Nam mà Cụ Nguyễn Văn Tố đã góp phần thực hiện.
Tháng 11-1946, tại Kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa I, Cụ Nguyễn Văn Tố được mời trở lại tham gia Chính phủ với cương vị Bộ trưởng không bộ. Trên cương vị mới, Cụ vừa tham gia góp ý, xây dựng đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại của Chính phủ, vừa góp phần động viên các tầng lớp nhân dân tích cực xây dựng đời sống mới, tạo dựng thế và lực cho sự nghiệp cách mạng.
Toàn quốc kháng chiến bùng nổ (19-12-1946), Cụ Nguyễn Văn Tố cùng Chính phủ rút lên Việt Bắc, tham gia nhiều công việc của Chính phủ bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên cương vị Phó Chủ tịch Ủy ban tản cư và di cư, Cụ đã tích cực chỉ đạo công việc tháo dỡ, di chuyển máy móc, trang thiết bị lên Việt Bắc phục vụ cho kháng chiến lâu dài; tổ chức cho đồng bào tản cư nơi ăn, chốn ở, động viên nhân dân nêu cao tinh thần yêu nước, tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.
Trong lúc cuộc chiến đấu của nhân dân cả nước đang vào hồi ác liệt, tháng 10-1947, quân Pháp mở chiến dịch tấn công lên Việt Bắc hòng tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta, cụ Nguyễn Văn Tố bị địch bắt và đã hy sinh oanh liệt trước mũi súng kẻ thù. Sự hy sinh của Cụ là một tổn thất lớn của Chính phủ, để lại niềm tiếc thương vô hạn đối với Quốc hội và nhân dân cả nước.
“Cụ Nguyễn Văn Tố đã cống hiến, hy sinh trọn đời vì sự nghiệp khai mở dân trí và giải phóng dân tộc. Cụ đã nêu tấm gương mẫu mực của một chí sĩ yêu nước nhiệt thành, nhà văn hóa uyên bác; nhà lãnh đạo đức độ, tài năng của Quốc hội và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cụ là tấm gương sáng luôn nêu cao tinh thần cần kiệm, khiêm tốn, giản dị, không màng danh lợi, phú quý cá nhân”, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân bày tỏ.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nhấn mạnh, kỷ niệm 130 năm Ngày sinh nhà chí sĩ yêu nước, Trưởng Ban Thường trực Quốc hội đầu tiên Nguyễn Văn Tố là dịp để chúng ta tri ân và tưởng nhớ công lao, cống hiến to lớn của Cụ đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, cũng là để thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của nhân dân ta. Cuộc đời hoạt động tận tụy, hy sinh vì nước, vì dân của Cụ Nguyễn Văn Tố là một tấm gương cao đẹp để các đại biểu Quốc hội, cùng cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân ta học tập, noi theo. Tấm gương của Cụ Nguyễn Văn Tố có ý nghĩa quan trọng góp phần vào việc bồi dưỡng lý tưởng, truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, nhất là thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
“Noi gương Cụ, trong mọi hoạt động, công tác, mỗi chúng ta phải luôn luôn đặt lợi ích của đất nước, của dân tộc và của Đảng lên trên hết; không ngừng nỗ lực phấn đấu vì nền độc lập, tự do trường tồn của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân; kiên định con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc đã lựa chọn, ra sức xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; xứng đáng với sự hy sinh cao cả của các tiên liệt anh hùng dân tộc, trong đó có Liệt sĩ Nguyễn Văn Tố - Trưởng Ban Thường trực Quốc hội đầu tiên của Quốc hội Việt Nam”, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân phát biểu./.
Tăng cường hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam với các nước  (02/06/2019)
Phó Thủ tướng Thường trực phát động Chiến dịch thanh niên tình nguyện và làm việc với lãnh đạo chủ chốt tỉnh Bắc Kạn  (02/06/2019)
Toàn văn bài phát biểu của Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch tại Đối thoại Shangri-La lần thứ 18  (02/06/2019)
Đối thoại Shangri-La: Cần xây dựng lòng tin chiến lược, tăng cường hợp tác, đối thoại  (02/06/2019)
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: Viettel cần đạt mục tiêu đứng trong nhóm 10 doanh nghiệp viễn thông lớn nhất thế giới vào năm 2025  (01/06/2019)
Đoàn kiểm tra của Bộ Chính trị làm việc tại tỉnh Thái Bình  (01/06/2019)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển