Báo cáo đề dẫn Hội thảo “Những vấn đề kinh tế - xã hội trong bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 trình Đại hội XI”
TCCSĐT - Tại Đại hội XI, ngoài việc thực hiện kiểm điểm thực hiện Nghị quyết, đề ra phương hướng nhiệm vụ cho giai đoạn 2011 - 2015; tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010, xác định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020… còn nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991. Hội thảo “Những vấn đề kinh tế - xã hội trong bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 trình Đại hội XI” được tổ chức nhằm đóng góp những nội dung đồng tình, cần bổ sung, phát triển thêm và đề xuất hướng bổ sung, phát triển những điều mới cho Cương lĩnh.
Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn chứng minh những thành tựu đạt được trong 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 là to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển; tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt khoảng 7%, cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tích cực, năm 1990 tỷ trọng các ngành trong GDP ở khu vực I chiếm 37,74%, khu vực II chiếm 23,63%, khu vực III chiếm 38,59%, đến năm 2009 tỷ trọng này ở khu vực I chiếm 20,66%, khu vực II chiếm 40,24%, khu vực III chiếm 39,1%; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 1.200 USD,…
Mặc dù đạt được những thành tựu to lớn nhưng đất nước vẫn đang phải tiếp tục đối mặt với nhiều biến động: cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước; khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á phát triển năng động, nhưng cũng tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định… Đặc điểm nổi bật của giai đoạn này là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Đại hội X của Đảng đã khẳng định: Qua tổng kết lý luận - thực tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đại hội X đã quyết định: “Sau Đại hội X, Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội”(1).
Chính vì những lý do trên, nên tại Đại hội XI, ngoài việc thực hiện kiểm điểm thực hiện Nghị quyết, đề ra phương hướng nhiệm vụ cho giai đoạn 2011-2015; tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010, xác định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020… còn nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991.
Đảng kêu gọi các đảng viên, các tổ chức đảng từ Trung ương đến địa phương đóng góp những nội dung đồng tình, cần bổ sung, phát triển thêm và đề xuất hướng bổ sung, phát triển những điều mới cho Cương lĩnh. Hội thảo “Những vấn đề kinh tế - xã hội trong bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 trình Đại hội XI” do Tạp chí Cộng sản phối hợp với Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đồng tổ chức cũng nằm trong khuôn khổ trên. Nội dung Hội thảo chủ yếu tập trung vào các vấn đề:
- Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: các hình thức sở hữu; vai trò của Nhà nước và kinh tế nhà nước; phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững.
- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người là trung tâm của chiến lược phát triển; giáo dục, đào tạo, phát triển khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc nâng cao trình độ lãnh đạo - quản lý đất nước; vấn đề bảo vệ môi trường…
Hội thảo đã đón nhận được trên 60 bài tham luận của các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo, quản lý, các bài viết thể hiện được tâm huyết, trách nhiệm người công dân, đảng viên trong ý thức đóng góp cho Cương lĩnh, Văn kiện xây dựng đất nước của Đảng.
Đánh giá chung về mô hình phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta, đa số đều cho rằng, đó là sự kết hợp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Đây là mô hình kinh tế phù hợp với quy luật phát triển tất yếu, thích hợp hoàn cảnh cụ thể Việt Nam. Các bài tham luận xoay quanh chủ đề này đều phân tích, luận giải về các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là sở hữu toàn dân, tập thể và tư nhân. Trên cơ sở đó, hình thành những thành phần kinh tế với các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng, đan xen lẫn nhau, phối hợp nhau để cùng phát triển. Những thành phần kinh tế đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó đa số đồng tình với quan điểm kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Thực tiễn phát triển của nền kinh tế nước ta cho thấy nội dung Cương lĩnh năm 1991 về sở hữu và các thành phần kinh tế đã từng bước được thể chế hóa, đi vào đời sống, được nhân dân đồng tình ủng hộ, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Cũng có ý kiến cho rằng, khi đánh giá nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc cần đề cập thêm đến vấn đề khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu thời gian qua là mang tính chu kỳ, như vậy sẽ nhìn nhận khách quan hơn về những khuyết tật vốn có của chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay, giúp chúng ta có cơ sở đánh giá thực tiễn hơn về vai trò của thành phần kinh tế tư bản nhà nước, xác định vị trí, vai trò quan trọng, loại hình sở hữu này trong “kết cấu kinh tế - xã hội quá độ”, tạo nên tính chất đan xen giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân, có khả năng đưa chúng ta đến chủ nghĩa xã hội bằng con đường chắc chắn nhất (như Lê-nin khẳng định), và do vậy cần được ưu tiên phát triển. Về nguồn lực cho phát triển kinh tế, cần phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ ngoại lực thông qua nâng cao chất lượng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam, sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả nhưng vẫn giữ được nền kinh tế độc lập tự chủ.
Trong nội dung đóng góp cho định hướng lớn về văn hóa, phần lớn các tham luận đều nhất trí rằng, con người là trung tâm của chiến lược phát triển. Rất nhiều bài viết khẳng định giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng trong xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Giáo dục - đào tạo có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết đối với vận mệnh, tương lai đất nước. Nhận thức về trách nhiệm này cần được triển khai thành một phong trào hành động lan rộng từ các cấp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách đến toàn xã hội, tạo thành sức mạnh, động lực để đưa sự nghiệp giáo dục - đào tạo thật sự là quốc sách hàng đầu, là giải pháp đột phá tạo động lực chính cho sự phát triển của đất nước vững bước tiến vào thế kỷ của tri thức hiện đại.
Để khoa học công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc nâng cao trình độ lãnh đạo - quản lý đất nước, phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế như Cương lĩnh đề ra, các nhà khoa học đề xuất cần nâng cao trình độ công nghệ trong từng ngành kinh tế, đồng thời chuyển dịch cơ cấu sang những ngành có hàm lượng công nghệ cao; khuyến khích nhập khẩu các công nghệ tiên tiến - hiện đại, tạo khả năng thích nghi và làm chủ các công nghệ ngoại nhập; phát triển năng lực khoa học công nghệ nội sinh để nâng cao hiệu quả tiếp nhận chuyển giao công nghệ; gắn kết việc nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ với thực tiễn sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội; đẩy mạnh hợp tác, hội nhập quốc tế.
Phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững phải gắn với nhiệm vụ bảo vệ môi trường, khai thác hợp lý tài nguyên khoáng sản, bảo đảm cho người dân đều được sống trong môi trường trong sạch lành mạnh. Bảo vệ môi trường vừa là nền tảng, vừa là mục tiêu phát triển bền vững đất nước, là yếu tố bảo đảm ổn định chính trị và an ninh quốc gia…
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2006, tr. 72-73.
Hội nghị Cấp cao ASEAN-Ấn Độ lần thứ 8: Tập trung thực hiện hiệu quả các thỏa thuận hợp tác đã đạt được  (30/10/2010)
Hội nghị Cấp cao ASEAN - Liên hợp quốc lần thứ 3  (30/10/2010)
Hội nghị Cấp cao ASEAN-Trung Quốc lần thứ 13 - Thông qua Tuyên bố ASEAN - Trung Quốc về Phát triển bền vững  (29/10/2010)
Thông cáo số 7: Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII  (29/10/2010)
Đông Nam Á - sự trỗi dậy của một khu vực  (29/10/2010)
Liệu kho vũ khí hạt nhân của Mỹ có đáng tin cậy?  (29/10/2010)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm