Tuyên ngôn Độc lập, ngọn cờ chiến đấu đầy khí phách của dân tộc ta trong thời đại mới
Hơn sáu thập kỷ qua, Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9-1945 vẫn như ngày nào, vang vọng khắp non sông, là ngọn cờ chiến đấu đầy khí phách của dân tộc ta trong thời đại mới. Từng ý, từng lời của Tuyên ngôn thấm sâu vào lòng mỗi con người Việt Nam, dù đó là những người từng sống như những chứng nhân lịch sử hay những người mới ra đời sau buổi bình minh của cách mạng.
Khái quát tình cảnh bi thảm của đất nước và cuộc đấu tranh kiên cường của dân tộc trong gần một thế kỷ để chống lại ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, bản Tuyên ngôn nêu lên một chân lý: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”
Và Tuyên ngôn khẳng định trước toàn thế giới:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Thực hiện Lời thề Độc lập trong Tuyên ngôn, 63 năm qua, dân tộc ta đã trải qua những cuộc chiến đấu mang tầm lịch sử, khó khăn gian khổ vô cùng, nhưng thắng lợi và những thành tựu giành được là vô giá.
Ba mươi năm đầu, từ 1945 đến 1975, là thời kỳ của hai cuộc kháng chiến cứu nước lâu dài nối tiếp nhau. Dân tộc ta đã lập nên kỳ tích: Đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, chẳng những bảo vệ được độc lập dân tộc, thống nhất giang sơn mà còn gõ hồi chuông báo tử đối với chủ nghĩa thực dân cũ và làm phá sản chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ phong trào giải phóng và độc lập dân tộc trên nhiều châu lục.
Ba mươi năm sau, từ giữa 1975 cho đến nay, là thời kỳ cả nước tiến lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện đổi mới toàn diện. Tuy được coi là thời kỳ hoà bình xây dựng, nhưng hơn một thập kỷ nữa, nhân dân ta lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh ở hai đầu biên giới, đồng thời đối mặt với một cuộc bao vây và cấm vận hiểm ác từ bên ngoài. Hoà bình xây dựng chỉ mới thực sự bắt đầu từ cuối thập niên 80 của thế kỷ trước đến nay. Thế mà sự nghiệp đổi mới, trải qua 20 năm, đã giành được thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi một cách căn bản bộ mặt của đất nước ta.
Tổng kết cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong thế kỷ XX, nhất là từ ngày có Đảng Cộng sản lãnh đạo, Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đã nêu lên ba thắng lợi vĩ đại và khẳng định: “Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Khẳng định “những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử” của sự nghiệp đổi mới, Đại hội X của Đảng (2006) một lần nữa chỉ rõ: “Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”.
Rõ ràng đất nước ta đang đồng hành cùng thời đại. Thời đại mới của dân tộc ta - thời đại Hồ Chí Minh - là thời đại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thời đại mở ra từ Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với bản Tuyên ngôn Độc lập đời đời bất hủ. Lời thề năm xưa “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập…” trong Tuyên ngôn, ngày nay chính là lời thề của toàn dân tộc ta “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng” để xây dựng đất nước phồn vinh, tiến lên sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới.
Chủ nghĩa xã hội là lý tưởng, là tương lai của dân tộc ta, đồng thời cũng là hiện thực, là cuộc sống mới đang từng bước xây dựng. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta hướng tới là xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là xã hội do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; là xã hội có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện. Đó còn là xã hội mà các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế đọ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
Cương lĩnh “xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” do Đại hội VII của Đảng ta thông qua năm 1991 đã xác định những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, đồng thời chỉ ra 7 phương hướng cơ bản và 8 định hướng lớn về các chính sách mà toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải thực hiện để tiến tới xã hội ấy. Thực tiễn đổi mới mấy chục năm qua là minh chứng hùng hồn về tính đúng đắn, giá trị định hướng và chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh. Tuy nhiên tình hình phát triển, nhiều vấn đề mới nảy sinh và đòi hỏi phải giải quyết. Để tiến tới Đại hội XI sắp tới, Đảng ta đang tiến hành một cuộc tổng kết quy mô lớn trên cả hai mặt lý luận và thực tiễn nhằm phục vụ cho việc tiếp tục bổ sung và phát triển Cương lĩnh.
Lịch sử không ngừng tiến về phía trước.Thế giới và đất nước không ngừng biến đổi. Nhưng giá trị của Tuyên ngôn Độc lập - tuyên ngôn khai sinh Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam - là vĩnh hằng. Một trăm năm sau hay là một nghìn năm sau, dân tộc ta vẫn sẽ còn nói đến Tuyên ngôn ấy với niềm tự hào sâu sắc./.
Học tập và làm theo gương Bác là phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng thực trạng  (02/09/2008)
Học tập và làm theo gương Bác là phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng thực trạng  (02/09/2008)
Tiếp tục học tập, nỗ lực làm theo  (02/09/2008)
Chiến tranh thông tin của Mỹ: từ Cô-xô-vô đến Nam Ô-xê-ti-a (phần 3)  (01/09/2008)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm