Nâng cao hiệu quả hoạt động chất vấn của Quốc hội theo tinh thần Hiến pháp năm 2013

TS. Bùi Ngọc Thanh Nguyên Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
21:54, ngày 27-07-2016
TCCSĐT - Chất vấn là một hình thức giám sát tối cao, quan trọng mà tất cả các Hiến pháp của nước ta qua các thời kỳ đều đã trao quyền cho đại biểu Quốc hội. Qua năm bản hiến pháp từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013 của nước ta có thể nhận thấy, hoạt động chất vấn đã có những bước tiến bộ khá rõ nét trên nhiều phương diện; dân chủ trong hoạt động của Quốc hội ngày càng được phát huy mạnh mẽ và rộng rãi.

Hiến định về chất vấn trong các bản hiến pháp

Là quy định quyền của cá nhân đại biểu nhưng khi thực hiện, chất vấn tại nghị trường lại là hoạt động của Quốc hội. Quốc hội thực hiện quyền lực nhà nước tại mỗi kỳ họp, buộc các đối tượng bị chất vấn phải trả lời trước toàn thể Quốc hội, hoặc trả lời bằng văn bản riêng cho đại biểu có chất vấn.

 Điều 80 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định về chất vấn của đại biểu Quốc hội như sau:

1- Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước.

2- Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp hoặc tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội; trong trường hợp cần thiết, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho trả lời bằng văn bản.

3- Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời gian nhất định.

Đối tượng trả lời chất vấn được mở rộng dần qua mỗi bản hiến pháp. Điều 55 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Các Bộ trưởng phải trả lời bằng thư từ hoặc bằng lời nói những điều chất vấn của Nghị viện hoặc của Ban Thường vụ. Kỳ hạn trả lời chậm nhất là 10 ngày sau khi nhận được thư chất vấn”(1). Đến Hiến pháp năm 1959, Điều 59 quy định: “Các đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Hội đồng Chính phủ và các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ. Cơ quan bị chất vấn phải trả lời trong thời hạn năm ngày; trường hợp phải điều tra thì thời hạn trả lời là một tháng”(2). Như vậy, nếu Hiến pháp năm 1946 quy định chỉ có bộ trưởng phải trả lời chất vấn thì đến Hiến pháp năm 1959, bộ trưởng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ đến Phó Thủ tướng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, đều phải trả lời chất vấn.

Đến Hiến pháp năm 1980 có thêm một số đối tượng phải trả lời chất vấn. Điều 95 quy định: “Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Hội đồng Bộ trưởng và các thành viên của Hội đồng Bộ trưởng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.

Cơ quan hoặc người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội trong kỳ họp của Quốc hội. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Hội đồng Nhà nước hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội.

Đại biểu Quốc hội có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước. Những người phụ trách các cơ quan này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét và giải quyết những kiến nghị của đại biểu”(3). Như vậy, so với Hiến pháp năm 1959, có thêm 02 đối tượng phải trả lời chất vấn, đó là người đứng đầu Tòa án nhân dân tối cao và người đứng đầu Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.

Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001-QH10, ngày 25-12-2001, của Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 10 tiếp tục mở rộng thêm đối tượng bị chất vấn. Điều 98 quy định: “Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.

Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp; trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản.

Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm. Người phụ trách các cơ quan, tổ chức, đơn vị này có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật định”(4).

Như vậy, theo Hiến pháp năm 1992, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội cũng thuộc diện phải trả lời chất vấn. Tiếp đến là người đứng đầu các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang cũng phải trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu.

Hiến pháp năm 2013, Điều 80 quy định tương tự như Điều 98 Hiến pháp năm 1992 và tăng thêm một đối tượng phải trả lời chất vấn, đó là Tổng Kiểm toán nhà nước.

Qua năm bản Hiến pháp có thể thấy, quyền lực nhà nước được kiểm soát và được quy định ngày càng chặt chẽ hơn; tất cả những người đứng đầu các cơ quan nhà nước thuộc ba nhánh quyền lực đều phải chịu sự giám sát trực tiếp, thường xuyên của Quốc hội nói chung, đều phải trả lời chất vấn trước Quốc hội nói riêng. Nếu các Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 chưa quy định rõ ràng, dứt khoát người bị chất vấn bắt buộc phải trả lời trước Quốc hội thì Hiến pháp các năm 1980, 1992 và đặc biệt Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định dứt khoát: người đứng đầu các cơ quan nhà nước nhất thiết phải trả lời chất vấn trước Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn cả trong thời gian kỳ họp và thời gian giữa hai kỳ họp trong suốt cả nhiệm kỳ Quốc hội. Chất vấn và trả lời chất vấn có sự đối thoại, trao đổi, tranh luận qua lại giữa đại biểu Quốc hội với người bị chất vấn, thậm chí truy vấn đến cùng để làm sáng tỏ một vấn đề, một sự kiện. Tất cả những vấn đề đó nói lên rằng, dân chủ trong hoạt động của Quốc hội ngày càng được phát huy mạnh mẽ và rộng rãi.

Nâng cao hiệu quả hoạt động chất vấn theo Hiến pháp năm 2013

Kế thừa thành quả hoạt động chất vấn của những khóa trước

Có thể nói, ngay từ kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa I (diễn ra từ ngày 28-10 đến ngày 09-11-1946), chất vấn và trả lời chất vấn đã thực sự diễn ra sôi nổi, hào hứng và có kết quả rõ rệt. “Các đại biểu Quốc hội đã chất vấn Ban Thường trực và Chính phủ nhiều vấn đề thuộc các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, tài chính, nội vụ...”(5). Trong khi trả lời chất vấn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá cao những chất vấn của đại biểu. Khởi đầu hoạt động chất vấn của Quốc hội là như thế. Tuy nhiên về sau chiến tranh ngày càng ác liệt, Quốc hội không thể họp, thậm chí có một thời gian dài Ban Thường trực Quốc hội không họp được mà chỉ có một bộ phận làm việc bên cạnh Chính phủ và góp ý cho Chính phủ...

Những khóa gần đây, cho đến trước khi Hiến pháp năm 2013 ra đời, hoạt động chất vấn đã có những bước tiến bộ khá rõ nét trên nhiều phương diện. Chất vấn và trả lời chất vấn được thực hiện thường xuyên ở mỗi khóa, từ kỳ họp thứ hai cho đến kỳ họp cuối cùng, được phát thanh và truyền hình trực tiếp để toàn dân theo dõi. Quốc hội đã thực hiện theo đúng trình tự được quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 11 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 và tinh thần Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Số lượng người phải trả lời chất vấn thường từ 06 đến 08 người (gần đây thường từ 04 đến 05 người). Thống kê sơ bộ cho thấy, tại mỗi kỳ họp, số câu hỏi (chất vấn) được gửi trước cho người bị chất vấn ở khóa XI là từ 150 đến 210 câu, ở khóa XII từ 220 đến 300 câu, ở khóa XIII tương tự như khóa XI, trên dưới 200 câu. Phần lớn các câu chất vấn này thường được gửi đến đại biểu trước khi diễn ra phiên chất vấn tại hội trường. Tại nghị trường, mỗi người trả lời chất vấn thường có khoảng 3 giờ để trả lời, đối thoại trực tiếp với các đại biểu từ 2 đến 3 nhóm vấn đề với trên dưới 25 câu hỏi cụ thể. Đánh giá kết quả về hình thức hoạt động giám sát bằng chất vấn, có thể thấy rõ năm điểm như sau:

- Đây là một trong những hoạt động sôi nổi, nổi bật của Quốc hội được đại biểu và cử tri đặc biệt quan tâm (các phiên chất vấn, số đại biểu có mặt thường đạt trên 95% tổng số đại biểu), là dịp để đại biểu gửi gắm những tâm tư, khúc mắc của cử tri tới các vị đứng đầu các cơ quan nhà nước. Đây cũng là dịp để người đứng đầu các cơ quan nhà nước ở Trung ương báo cáo “trực tuyến” với cử tri qua các phương tiện thông tin đại chúng về những hoạt động của cơ quan mình, trách nhiệm của cơ quan mình (những kết quả, những khó khăn) để cùng chia sẻ; cùng với Quốc hội tìm các giải pháp thúc đẩy thực thi nhiệm vụ tốt hơn.

- Ở mỗi khóa, càng những kỳ họp về sau, đại biểu rút được kinh nghiệm nên nội dung các chất vấn càng “có tầm” hơn. Kỹ năng chất vấn cũng được nâng cao (chất vấn đúng nhóm vấn đề đã được xác định, câu hỏi ngắn gọn, rõ nghĩa, vấn đề chất vấn thực sự mang tầm ở phạm vi rộng hoặc cả nước).

- Người trả lời chất vấn cũng rút nhiều kinh nghiệm, càng về sau càng trả lời gọn gàng, súc tích và đúng trọng tâm hơn theo phương châm “hỏi gì đáp nấy”. Qua chất vấn, phần lớn người trả lời chất vấn thấy rõ trách nhiệm và “hứa” sẽ xử lý công việc tốt hơn.

- Hoạt động chất vấn đã có những cải tiến, đổi mới nhất định. Một sự kiện có thể coi là một thành tựu lớn, đó là năm 2003 Quốc hội đã ban hành Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội. Tại Điều 7 của luật này quy định năm hình thức giám sát của Quốc hội, trong đó chất vấn là hình thức thứ tư. Từ sau khi có Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, hoạt động chất vấn đã tuân theo quy trình, trình tự, thủ tục, nội dung mà Luật quy định. Bởi vậy, người hỏi chỉ hỏi theo nhóm vấn đề từ 2 đến 3 phút; người trả lời chỉ nói tóm tắt trong ít phút, do đó thời gian đối thoại tăng lên, không khí nghị trường cũng sôi động hơn. Vấn đề đang được đối thoại cũng được làm sáng tỏ hơn.

- Từ cuối nhiệm kỳ khóa XII đến nay, hầu như tại các phiên chất vấn của kỳ họp, nhất là ở kỳ họp cuối năm, Quốc hội đều ra Nghị quyết chất vấn, trong đó chỉ rõ những vấn đề cần được sớm giải quyết và trách nhiệm của người trả lời chất vấn. Điều này góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chất vấn.

Mặc dù có những bước tiến quan trọng nhưng trong hoạt động chất vấn tại kỳ họp Quốc hội vẫn còn những hạn chế nhất định. Chẳng hạn như, vẫn còn một số đại biểu đưa ra câu hỏi rất dài nhưng không rõ nội hàm, nội dung khiến người bị chất vấn khó trả lời đúng ý người hỏi. Bên cạnh đó còn có không ít đại biểu là lãnh đạo chủ chốt của địa phương nắm vững sự điều hành, hoạt động của Chính phủ, của các bộ, ngành, biết rõ những khúc mắc, khó khăn nhưng lại không tham gia chất vấn; thậm chí còn có tình trạng vì lợi ích cục bộ địa phương nên ngại “đụng chạm” đến người có quyền chi phối lợi ích... Những hạn chế như vậy đã cản trở đáng kể đến việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hoạt động chất vấn.

Chủ thể của hoạt động chất vấn phải nắm vững yêu cầu chất vấn

Đại biểu Quốc hội (người có quyền chất vấn) và người đứng đầu các cơ quan nhà nước (người bị chất vấn) hơn ai hết phải hiểu rõ mục đích, ý nghĩa của hoạt động chất vấn. Đó là: “... góp phần bảo đảm cho Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất” như Lời nói đầu Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 đã khẳng định (6). Chất vấn còn nhằm thúc đẩy việc nâng cao trách nhiệm chính trị của những người đứng đầu các cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm trước Quốc hội, trước nhân dân để hoàn thành ngày càng tốt hơn nhiệm vụ mà Nhà nước và nhân dân giao phó. Ở đây phải chống cả hai khuynh hướng tư tưởng lệch lạc, một là, coi chất vấn là sự moi móc, chỉ trích; hai là, xuê xoa, nương nhẹ, “đến hẹn lại lên”, là hoạt động hành chính, và đi đến “dĩ hòa vi quý” cho “vừa lòng nhau”. Tư tưởng này hoàn toàn trái với Điều 69 của Hiến pháp năm 2013: “Quốc hội... giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”.

Đại biểu Quốc hội phải nắm vững quyền được chất vấn

Về mặt tâm lý, có thể có một số đại biểu mới tham gia Quốc hội, nhất là những đại biểu không giữ chức vụ nào trong hệ thống chính trị thường cảm thấy “ngợp” về những quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 80 của Hiến pháp. Thực tế cho thấy, ở nhiều khóa, trong các kỳ họp ở hai năm đầu, các đại biểu mới này hầu như không chất vấn, không đối thoại trực tiếp; một vài đại biểu chỉ chất vấn bằng văn bản và xin được trả lời bằng văn bản. Nếu dừng lại ở mức đó, đại biểu chưa thực hiện được nhiệm vụ của đại biểu nói chung và chất vấn nói riêng mà Hiến pháp năm 2013 trao cho.

Trong số các đại biểu là trưởng đoàn (thường là một trong bốn chức danh chủ chốt của địa phương), các đại biểu là lãnh đạo các cấp thuộc lĩnh vực hành pháp, không ít đại biểu không thực hiện quyền chất vấn, quyền đối thoại. Thực tế này đặt ra vấn đề về cơ cấu đại biểu và tinh thần trách nhiệm của đại biểu. Do vậy, về lâu dài, cần xem xét cơ cấu lại đại biểu Quốc hội mỗi khóa, trong đó tiếp tục giảm bớt số lượng và tỷ lệ đại biểu thuộc các cơ quan hành pháp.

Các đối tượng ít bị chất vấn nên trả lời chất vấn

Theo dõi hoạt động chất vấn các khóa gần đây, nhất là khóa XII và XIII cho thấy, một số đại biểu bị chất vấn theo quy định của Hiến pháp nhưng chưa hoặc ít khi đối thoại trực tiếp trước Quốc hội. Do vậy, Quốc hội nên thiết kế các tiêu chí làm căn cứ lựa chọn người trả lời chất vấn trực tiếp tại kỳ họp Quốc hội. Các tiêu chí đó có thể là: 1- Khách quan và bình đẳng giữa các đối tượng bị chất vấn; 2- Các chất vấn mà mỗi chức danh nhận được tại kỳ họp; 3- Dù ít các chất vấn nhưng chất vấn đó lại thuộc những vấn đề đại sự; 4- Số lần chức danh đã trả lời chất vấn trực tiếp trước Quốc hội trong nhiệm kỳ; 5- Số người cần trả lời chất vấn trực tiếp trong mỗi kỳ họp...

Nếu có thể được, cần tính toán trong 10 kỳ họp của mỗi khóa (trừ kỳ họp đầu tiên - kỳ họp xây dựng bộ máy nhiệm kỳ mới của Nhà nước, các chức danh vừa được bầu hoặc phê chuẩn) mỗi kỳ họp bao nhiêu người trả lời là hợp lý để bảo đảm cơ bản tất cả các đối tượng bị chất vấn đều ít nhất một lần trả lời trực tiếp (trước đây 06 đến 08 người và nay 04 đến 05 người trả lời chất vấn trong một kỳ họp đều chưa có căn cứ nào mang tính luật định). Việc tất cả đều phải trả lời chất vấn hoàn toàn có tính khả thi, bởi hầu như không có lĩnh vực nào trong kỳ họp lại không có chất vấn. Trong 150 đến gần 300 chất vấn ở mỗi kỳ họp đều có các vấn đề nổi cộm ở rất nhiều lĩnh vực. Nhưng quan trọng hơn, mọi đối tượng được luật định đều có nghĩa vụ phải thi hành Hiến pháp về hoạt động chất vấn.

Đổi mới toàn diện hoạt động chất vấn

Thứ nhất, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 20-11-2015) quy định về giám sát tối cao của Quốc hội gồm 11 điều (từ Điều 11 đến Điều 21). Những quy định đó cần được hướng dẫn chi tiết, cụ thể, chặt chẽ để các chủ thể của hoạt động chất vấn phải tuân thủ nghiêm túc quy định của Hiến pháp, của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân và Nội quy kỳ họp Quốc hội. Nghị quyết của Quốc hội sau phiên chất vấn phải nói rõ trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện (hết sức tránh hứa suông; tránh tâm lý thở phào nhẹ nhõm sau chất vấn…).

Thứ hai, những vấn đề bức xúc thể hiện trong các câu hỏi chất vấn ngày càng nhiều và phức tạp, vì thế cần xem xét khôi phục đủ thời lượng và bảo đảm số người trả lời chất vấn trực tiếp ở mỗi kỳ họp như khóa XI trở về trước (06 đến 08 người) để hoạt động chất vấn vừa bảo đảm chất lượng nhưng đồng thời cũng hợp lý cả về số lượng (số người trả lời, thời gian hoạt động, số đại biểu đối thoại và các vấn đề đã được xử lý hoặc được xem xét).

Thứ ba, nếu mỗi nhiệm kỳ chỉ bỏ phiếu tín nhiệm một lần đối với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn thì có thể coi chất vấn là biện pháp “kiểm tra”, “sát hạch” hằng năm đối với các chức danh bị chất vấn. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nên lập kế hoạch để các chức danh trả lời chất vấn theo quy định của Hiến pháp mỗi nhiệm kỳ được trả lời chất vấn ít nhất một, hai lần.

Tất cả các vấn đề nói trên đều nhằm thực hiện đúng mục tiêu của hoạt động chất vấn, nâng cao tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan nhà nước, góp phần thực hiện tốt nhất tuyên ngôn của Hiến pháp năm 2013: “Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(7)./.
---------------------------------------------------------
Chú thích:

(1) Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992, 2013), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2015, tr. 23

(2) Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992, 2013), Sđd, tr. 47

(3) Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992, 2013), Sđd, tr. 101

(4) Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992, 2013), Sđd, tr. 160

(5) Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946 - 1960, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 96

(6) http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&mode=detail&document_id=93603

(7) Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992, 2013), Sđd, tr. 195