TCCSĐT - Sáng 23-01, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết thúc phần thảo luận về văn kiện. Qua một ngày rưỡi thảo luận đã có 34 đại biểu tham luận về các vấn đề quan trọng trong các văn kiện Đại hội.

Phiên thảo luận sáng 23-01 tại Hội trường do đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị khóa XI, Thủ tướng Chính phủ điều hành.

 
 Đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị khóa XI, Thủ tướng Chính phủ điều hành phiên thảo luận sáng ngày 23-01.

Đồng chí Phạm Bình Minh, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao tham luận về chủ đề " Đưa quá trình hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, phục vụ hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam".

Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh nêu rõ: Thành tựu đối ngoại năm năm qua khẳng định sự đúng đắn của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” mà Đại hội Đảng lần thứ XI đã đề ra. Các thành tựu đối ngoại đó là kết quả nỗ lực chung của toàn bộ hệ thống chính trị, với sự tham gia và phối hợp tích cực, chủ động của các bộ, ban, ngành, các địa phương, các doanh nghiệp và nhân dân, dưới sự chỉ đạo tập trung, trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Phân tích bối cảnh tình hình thế giới và trong nước giai đoạn tới, Phó Thủ tướng nhấn mạnh: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc là định hướng chiến lược lớn của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Năm năm tới là thời kỳ Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN, của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu hơn nhiều so với giai đoạn trước, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải nỗ lực rất cao để tận dụng thời cơ, vượt qua những thách thức lớn trong quá trình hội nhập, để hội nhập quốc tế thực sự trở thành phương tiện hữu hiệu phục vụ phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc.

Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh nhấn mạnh: Để đưa hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, trên cơ sở quán triệt và thực hiện đúng các quan điểm về hội nhập quốc tế được nêu trong Dự thảo văn kiện Đại hội, đối ngoại cần tập trung làm tốt các công việc sau: Thứ nhất, thực hiện triệt để phương châm “triển khai đồng bộ” các định hướng đối ngoại được Đại hội XII của Đảng thông qua, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình hội nhập quốc tế; nâng cao hiệu quả sự phối hợp giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân, giữa các ngành, các cấp, các địa phương.

Thứ hai, trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác, nhất là các khuôn khổ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đảm bảo môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước, thúc đẩy quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học, công nghệ, tạo thuận lợi cho phát triển đất nước và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Thứ ba, nâng cao hiệu quả hội nhập, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, theo đó cần tăng cường công tác phổ biến các cam kết quốc tế ta đã ký kết, đã nội luật hóa và các quy định trong quá trình triển khai; làm cho mỗi tổ chức, mỗi người dân hiểu rõ thách thức, cơ hội mà họ có được từ hội nhập quốc tế để tham gia một cách chủ động và tích cực; biến quá trình hội nhập từ các hoạt động chủ yếu do các cơ quan nhà nước tiến hành thành quá trình tham gia chủ động và tích cực của từng địa phương, tổ chức, doanh nghiệp, người dân.

Thứ tư, triển khai các định hướng lớn về hội nhập được nêu trong Văn kiện Đại hội, tập trung thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến 2020, tầm nhìn 2030 và các đề án, kế hoạch triển khai Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị; khẩn trương hoàn thiện, nâng cao năng lực các thể chế hội nhập; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ hội nhập; phấn đấu đến 2020, mức độ hội nhập trên các lĩnh vực của nước ta ở mức độ cao trong ASEAN.

 
 Ủy viên Bộ Chính trị khóa XI, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang với các đại biểu.

Thay mặt Ban Kinh tế Trung ương, đồng chí Phạm Xuân Đương, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, Phó Trưởng ban thường trực trình bày tham luận về chủ đề "Định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia nhằm đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2016 -2020".

Qua 30 năm đổi mới, những thành tựu đạt được của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là hết sức quan trọng có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, nền công nghiệp nước ta phát triển còn rất khiêm tốn, cơ cấu ngành nghề, nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, năng lực dự báo tiếp cận thị trường sản xuất kinh doanh, quản trị doanh nghiệp, tinh thần tuân thủ hợp tác còn hạn chế; chưa chú trọng tập trung phát triển các ngành công nghiệp nền tảng như công nghiệp chế tạo, chế biến và công nghiệp vật liệu… Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên trước hết từ việc tổng kết lý luận, thực tiễn về xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia, việc đánh giá, rà soát, sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung, ban hành mới chưa đồng bộ, kịp thời trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Trong thời gian tới, định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia với những quan điểm, mục tiêu như sau: Thứ nhất, chính sách phát triển công nghiệp quốc gia phải được xây dựng đồng bộ, tuân thủ đầy đủ các quy luật khách quan của thị trường gắn liền với quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện có hiệu quả 3 khâu đột phá chiến lược.

Thứ hai, chính sách công nghiệp quốc gia phải phát huy tối đa các nguồn lực trong nước, đồng thời thu hút có hiệu quả các nguồn lực nước ngoài, phát huy vai trò tích cực của thị trường, phân bổ các nguồn lực cho phát triển công nghiệp xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng.

Thứ ba, chính sách phát triển công nghiệp quốc gia lấy khoa học và công nghệ làm nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, khuyến khích các dự án sử dụng công nghệ cao, chuyển nhanh sang kinh tế tri thức để tạo bước nhảy vọt phát triển công nghiệp quốc gia.

Thứ tư, chính sách phát triển công nghiệp quốc gia phải coi trọng đổi mới sáng tạo, trong đó yếu tố nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh, bền vững; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn lực với phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ.

Thứ năm, chính sách phát triển công nghiệp phải đảm bảo kết hợp giữa phát triển công nghiệp với thương mại, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp văn hóa, công nghiệp dịch vụ, công nghiệp du lịch, công nghiệp môi trường và phát triển đô thị; gắn sản xuất với thị trường, gắn thị trường với công nghệ, thị trường với sản xuất.

Để thực hiện quan điểm, mục tiêu nêu trên, Ban Kinh tế Trung ương nghiên cứu một số định hướng chính sách lớn để phát triển công nghiệp quốc gia giai đoạn 2016-2020 và tầm nhìn đến 2035. Tại Đại hội này, Ban Kinh tế Trung ương đề xuất một số giải pháp chủ yếu.

Một là, sử dụng có hiệu quả các tiềm năng về tài nguyên, lợi thế so sánh và nguồn lực con người để nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; đẩy mạnh tích lũy nguồn lực cho phát triển công nghiệp quốc gia, nâng cao năng lực tiếp cận phát triển các yếu tố nguồn lực và thị trường, trong đó tập trung vào phát triển, tiếp cận vốn và thị trường tài chính, lao động và thị trường lao động, khoa học công nghệ và quyền sở hữu trí tuệ, cơ sở hạ tầng; tăng cường liên kết hợp tác và kết nối thị trường giữa các ngành kinh tế, chủ thể kinh tế, không gian kinh tế; nâng cao năng lực hội nhập quốc tế, phân bổ nguồn lực hợp lý giữa phát triển công nghiệp với đô thị hóa gắn liền với phát triển bền vững, bảo vệ môi trường; hình thành một số tập đoàn công nghiệp mạnh, trọng tâm là công nghiệp nền tảng như công nghiệp cơ khí, công nghiệp chế biến, chế tạo, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, an ninh; thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp và khởi sự doanh nghiệp.

Hai là tăng cường ổn định bền vững kinh tế vĩ mô, nâng cao năng suất lao động quốc gia và đóng góp của năng suất, các yếu tố tổng hợp trong mô hình tăng trưởng theo hướng đẩy mạnh khoa học, công nghệ và xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo, tăng cường kết nối khu vực và coi trọng phát triển bền vững theo chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc.

Ba là, tiến hành phân loại các nhóm chính sách công nghiệp quốc gia để hoàn thiện, bổ sung cho phù hợp và đồng bộ, nhất là các nhóm chính sách cho các ngành công nghiệp nền tảng, các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; nhóm chính sách cho các ngành công nghiệp vật liệu và vật liệu mới, công nghệ số và công nghiệp phần mềm; đẩy mạnh phát triển công nghiệp công nghệ thông tin.

Bốn là thúc đẩy đầu tư phát triển khoa học công nghệ gắn nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học với sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tin học hóa trong quản lý hành chính Nhà nước và quản trị công nghiệp quốc gia, đáp ứng nhu cầu của thị trường; chú trọng đẩy mạnh phát triển thị trường khoa học công nghệ; thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm trong lĩnh vực khoa học công nghệ.

Năm là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy mạnh thực hiện đổi mới phương thức giáo dục - đào tạo, chú trọng đào tạo ngành nghề, kỹ thuật, kỹ năng văn hóa và tác phong công nghiệp.

 
 Phía trước Hội trường Trung tâm hội nghị quốc gia - nơi đang diễn ra Đại hội XII của Đảng.

Tham luận của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát nêu bật những đóng góp của ngành nông nghiệp giai đoạn 2011-2015, trong bối cảnh chung có nhiều khó khăn, thách thức, nước ta đã cơ bản đạt được mục tiêu duy trì tăng trưởng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và tăng cường xuất khẩu; nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống dân cư nông thôn, bảo vệ và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững.

Để thực hiện chủ trương tiếp tục thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế, trong đó cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gắn với phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới đã xác định trong dự thảo Văn kiện của Đại hội, Bộ trưởng Cao Đức Phát kiến nghị tập trung phát triển ngành nông nghiệp bền vững theo 3 trụ cột là: Thực hiện tái cơ cấu, xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, giá trị gia tăng cao và hiệu quả; xây dựng nông thôn mới, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện sống của dân cư nông thôn; phát triển kết cấu hạ tầng, nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai; bảo vệ và sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn tài nguyên và môi trường bền vững.

Theo Bộ trưởng, để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ đó, kinh nghiệm thực tiễn những năm qua cho thấy trước hết cần có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt của các cấp ủy, chính quyền, sự tham gia tích cực của tất cả các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội từ trung ương đến địa phương để giải quyết một cách đồng bộ, tổng thể các nhiệm vụ; trong đó tập trung thực hiện tốt các giải pháp: Tiếp tục quán triệt, tuyên truyền nâng cao nhận thức về sự cần thiết, tất yếu và tầm quan trọng của việc tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, phải xác định tái cơ cấu nông nghiệp thực chất là cuộc đổi mới lần thứ hai trong nông nghiệp và khẳng định tính cách mạng của chủ trương xây dựng nông thôn mới. Tiếp tục tập trung nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; trên cơ sở phát triển đồng bộ, hiệu quả các thị trường liên quan, trước hết tạo điều kiện để nông dân và doanh nghiệp tiếp cận thuận lợi hơn về đất đai, nguồn vốn và thị trường, hiện đại hóa nông nghiệp, khuyến khích phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, phát triển công nghiệp và ngành nghề nông thôn để tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho nông dân, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn, xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường nông thôn bền vững.

Bộ trưởng đề xuất đẩy mạnh đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, trọng tâm là phát triển các doanh nghiệp nông - lâm nghiệp và các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu; hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới không chỉ làm tốt các dịch vụ đầu vào cho xã viên mà chủ yếu tập trung tổ chức nông dân sản xuất hàng hóa quy mô lớn, đồng nhất về chất lượng, hiệu quả, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và kết nối thị trường. Tăng cường nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ, ưu tiên ứng dụng công nghệ cao trong tất cả các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ của ngành; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tin học, công nghệ sinh học, công nghệ viễn thông, viễn thám; khuyến khích các hoạt động đổi mới sáng tạo nhằm tạo đột phá về năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả của ngành. Chú trọng khuyến khích doanh nghiệp tham gia nghiên cứu chuyển giao khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho nông dân.

Bộ trưởng đề nghị cần tiếp tục huy động các nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, tăng cường năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu; nâng cấp cơ bản hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu trên địa bàn xã (giao thông, điện, nước sạch, trường học các cấp, trạm y tế xã, nhà văn hóa và khu thể thao thôn), nhất là đối với các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và tăng hưởng thụ trực tiếp cho cư dân nông thôn. Phát huy cao vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, vai trò tiên phong gương mẫu của đảng viên, đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Tiếp tục kiện toàn, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống quản lý ngành từ Trung ương đến địa phương, phát huy cao sự tham gia của các tổ chức đoàn thể trong tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

Đồng chí Thào Xuân Sùng, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, Phó Trưởng ban Dân vận Trung ương với tham luận “Tăng cường xây dựng quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc đổi mới”, đã làm sáng tỏ quan điểm của Đảng về công tác dân vận, hiệu quả công tác dân vận thời gian qua cũng như việc tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân đã được xác định tại dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng.

Theo đồng chí Thào Xuân Sùng, hơn 85 năm qua, đặc biệt qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), trong xây dựng quan hệ giữa Đảng với Nhân dân, Đảng ta đã đạt được sáu thành tựu quan trọng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Một là, Đảng lắng nghe Nhân dân, vì Nhân dân, dựa vào Nhân dân và Nhân dân tin Đảng trở thành nhân tố bảo đảm sự đúng đắn và thành công của đường lối đổi mới của Đảng. Hai là, Đảng gắn bó với Nhân dân và được Nhân dân ủng hộ, đã làm nên “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Ba là, Đảng chăm lo xây dựng quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, là nhân tố có ý nghĩa quyết định tạo nên sức mạnh của Đảng. Bốn là, Đảng lãnh đạo phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng và thực hiện ngày càng có hiệu quả Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. Năm là, Đảng lãnh đạo xây dựng, củng cố, tăng cường và phát huy ngày càng cao sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế. Sáu là, với những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và pháp luật của Nhà nước, Đảng đã lãnh đạo và cùng Nhân dân đấu tranh kiên quyết, kiên trì phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội, tạo được sự chuyển biến tích cực cả về nhận thức và hành động, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân ta đối với Đảng và tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân.

Trong những năm tới, Đảng cần đẩy mạnh lãnh đạo có hiệu quả công cuộc đổi mới và tăng cường việc thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, các chủ trương, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước theo hướng phát huy dân chủ và xây dựng Nhà nước ta thực sự là của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân để đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân. Trong đó, các cấp ủy, tổ chức đảng phải đặc biệt chú trọng lựa chọn, giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước có trình độ trí tuệ, năng lực chuyên môn, đạo đức cách mạng, thực sự là “công bộc” của Nhân dân, thực hành phong cách “trọng Dân, gần Dân, hiểu Dân, học Dân và có trách nhiệm với Dân”; quan tâm lãnh đạo đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, hướng về cơ sở và gắn bó mật thiết với các tầng lớp Nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân.

Đại hội cũng đã nghe tham luận của các đồng chí: Nguyễn Đắc Vinh, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng khóa XI, Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh với chủ đề “Giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ”; Phạm S, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng tham luận về vấn đề "Tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng tiếp cận đa ngành gắn với xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng"; Nguyễn Quốc Cường, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam với chủ đề "Xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam vững mạnh trong khối đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"; Sơn Thị Ánh Hồng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Trà Vinh về vấn đề “Phát huy vai trò người có uy tín trong đồng bào dân tộc, tôn giáo để phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh, trật tự vùng có đông đồng bào dân tộc, tôn giáo trên địa bàn Trà Vinh”; Lê Trường Lưu, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế với chủ đề "Xây dựng và phát triển Thừa Thiên - Huế theo hướng tăng trưởng xanh và bền vững"; Phạm Thị Hải Chuyền, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội với chủ đề "Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội"; Nguyễn Thị Thanh Hòa, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam về chủ đề: "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa"; Đặng Ngọc Tùng, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam với chủ đề "Công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế".

Như vậy, đến hết sáng 23-01, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết thúc phần thảo luận về văn kiện. Qua một ngày rưỡi thảo luận đã có 34 đại biểu tham luận về các vấn đề quan trọng trong các văn kiện Đại hội. Chiều 23-01, Đại hội làm việc tại Hội trường về công tác nhân sự.

Cũng tại phiên họp sáng 23-01, đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Đoàn Thư ký cho biết đến sáng 23-01, đã có 200 chính đảng, tổ chức và bạn bè quốc tế đã gửi điện chúc mừng Đảng ta và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng./.