Chính sách bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng cho người lao động

TS. Phạm Minh Huân Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
21:58, ngày 05-06-2015

TCCSĐT - Những năm qua, thực hiện Nghị quyết của Đảng, nhiều chính sách, pháp luật trong lĩnh vực lao động đã được ban hành và triển khai thực hiện trong cuộc sống, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động, tạo lập mối quan hệ hài hòa, ổn định trong doanh nghiệp, thúc đẩy thị trường lao động phát triển,…

Số liệu Tổng cục Thống kê cho thấy, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước ước tính đến thời điểm 01-01-2015 là 54,48 triệu người, tăng 782 nghìn; số người trong độ tuổi lao động ước tính đến thời điểm trên là 47,75 triệu người, tăng 333,7 nghìn người so với cùng thời điểm năm 2014. Thực hiện các chế độ, chính sách bảo đảm quyền và lợi ích cho người lao động đã đạt được những kết quả chủ yếu sau:

Thứ nhất, đã thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành hệ thống chính sách, pháp luật về lao động.

Bộ luật Lao động năm 1994 là nền tảng đánh dấu bước phát triển quan trọng của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực lao động, trong đó đã thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992 về lao động, về sử dụng lao động và quản lý lao động, đề cập đến các nội dung trước, trong và sau quá trình lao động như về việc làm, dạy nghề, hợp đồng lao động, tiền lương, an toàn, vệ sinh lao động, bảo hiểm xã hội... Vấn đề cơ bản nhất của Bộ luật Lao động năm 1994 là đã chuyển quan hệ phân phối việc làm sang quan hệ hợp đồng lao động và hình thành các bên đại diện trong quan hệ lao động. Trên cơ sở các chương trong Bộ luật Lao động, các luật chuyên ngành tiếp tục làm rõ hơn, cụ thể hơn các nội dung của Bộ luật Lao động như Luật Dạy nghề (sau này là Luật Giáo dục nghề nghiệp), Luật Việc làm, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, dự án Luật An toàn, vệ sinh lao động đã được ban hành và một số dự án luật tiếp tục được nghiên cứu như Luật Tiền lương tối thiểu, Luật Quan hệ lao động, Luật Công đoàn... Trên cơ sở thực tiễn và yêu cầu hội nhập quốc tế, Bộ luật Lao động năm 2012 đã được sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật, trong đó quy định cụ thể về hợp đồng lao động, tiền lương và chú trọng nhiều hơn đến các nội dung về quan hệ lao động như đối thoại lao động tại nơi làm việc, thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể.

Thứ hai, công tác quản lý nhà nước về lao động tiếp tục được tăng cường.

Ngoài việc nghiên cứu, báo cáo Chính phủ để trình Quốc hội ban hành Bộ luật Lao động và các luật chuyên ngành nêu trên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã chủ trì, trình Chính phủ ban hành các nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện. Đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật, tập huấn nghiệp vụ để các đối tượng, nhất là người lao động, người sử dụng lao động, người làm công tác lao động hiểu và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật lao động. Củng cố và tăng cường năng lực của hệ thống thanh tra lao động từ trung ương xuống địa phương, tăng cường việc thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật. Qua thanh tra, kiểm tra phát hiện các quy định chưa phù hợp để tổng hợp, báo cáo sửa đổi, bổ sung kịp thời đáp ứng yêu cầu tình hình thực tiễn. Đồng thời phát hiện sai phạm tùy mức độ để nhắc nhở, uốn nắn hoặc xử phạt nhằm nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật lao động của người sử dụng lao động và người lao động.

Thứ ba, hệ thống chính sách, pháp luật về lao động được ban hành và áp dụng trong thực tiễn đã góp phần tăng việc làm cho người lao động, thúc đẩy thị trường lao động phát triển, tăng cường kết nối cung - cầu lao động, nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động. Hình thành mối quan hệ lao động ở nhiều cấp độ theo hướng hài hòa và ổn định, giải quyết hiệu quả tranh chấp trong quan hệ lao động giữa các bên và tăng cường mạng lưới an sinh đối với người lao động.

Về việc làm: Luật Việc làm năm 2013 đã quy định rõ các chính sách về hỗ trợ tạo việc làm, về thông tin thị trường lao động, về đánh giá cấp chứng chỉ nghề quốc gia, về tổ chức, hoạt động dịch vụ việc làm và về bảo hiểm thất nghiệp. Chuyển từ bị động sang việc chủ động tạo việc làm và hướng đến việc làm có chất lượng (việc làm có chuyên môn kỹ thuật và thu nhập cao) thông qua việc hỗ trợ tạo việc làm: chính sách tín dụng ưu đãi tạo việc làm, chính sách hỗ trợ chuyển dịch việc làm đối với người lao động ở khu vực nông thôn, chính sách việc làm trong các khu công nghiệp, khu chế xuất và các chính sách hỗ trợ khác (hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên, hỗ trợ phát triển thị trường lao động). Các chế độ bảo hiểm thất nghiệp ngoài trợ cấp thất nghiệp còn có các hoạt động hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm; hỗ trợ học nghề; hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề tạo cơ hội cho người lao động sớm có việc làm mới tham gia vào thị trường lao động.

Về dạy nghề: Luật Dạy nghề năm 2006 được thay thế bằng Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014 đã hướng vào việc hình thành và phát triển hệ thống cơ sở dạy nghề theo các cấp trình độ có trang thiết bị hiện đại, các giáo trình tiên tiến và đội ngũ giáo viên đạt trình độ tiêu chuẩn, đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp, của thị trường lao động, góp phần nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đến hết năm 2014, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 36,1%, phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ qua lao động đào tạo nghề đạt 55%.

Về hợp đồng lao động, tiền lương và quan hệ lao động, trong Bộ luật Lao động đã quy định theo hướng đa dạng hóa hình thức hợp đồng lao động, khuyến khích việc quy định chi tiết, đầy đủ các nội dung trong hợp đồng lao động. Quy định rõ quyền, nghĩa vụ mỗi bên trong việc thực hiện, hình thành cơ chế thỏa thuận tiền lương thông qua hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và nội quy, quy chế của doanh nghiệp; khuyến khích trả lương cao cho lao động kỹ thuật, lao động có chuyên môn cao theo nhu cầu doanh nghiệp và mặt bằng tiền công trả trên thị trường. Có lộ trình điều chỉnh tăng dần mức lương tối thiểu để bảo đảm đáp ứng nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ, điều chỉnh quan hệ lao động giúp việc gia đình, quan hệ cho thuê lại lao động nhằm vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động vừa sử sụng hiệu quả nguồn lao động cũng như tạo sự linh hoạt của thị trường lao động. Tăng cường đối thoại, thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể ở nhiều cấp độ, tăng cường vai trò của hòa giải viên, hội đồng trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp lao động, hướng việc tranh chấp đình công theo trình tự pháp luật.

Về an toàn, vệ sinh lao động: dự thảo Luật An toàn, vệ sinh lao động đang trình Quốc hội khóa XIII cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 và thông qua tại kỳ họp thứ 9 theo hướng quy định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc bảo đảm điều kiện lao động, an toàn cho người lao động cũng như trách nhiệm của người lao động với vấn đề này. Nâng cao nhận thức và hành động vì môi trường lao động an toàn không chỉ trong khu vực có quan hệ lao động mà cả khu vực phi chính thức, không chỉ ở doanh nghiệp có quy mô mà cả doanh nghiệp nhỏ và vừa và khu vực nông, lâm, ngư nghiệp. Tăng trợ giúp cho người bị tai nạn lao động bằng nhiều hình thức như chi phí điều trị, phục hồi chức năng, trợ cấp sinh hoạt, trợ cấp đào tạo nghề... Tăng cường công tác kiểm định máy móc, công cụ, tăng cường huấn luyện về an toàn lao động cho các loại hình doanh nghiệp, trong đó tập trung trước hết vào các doanh nghiệp, khu vực, ngành nghề có nguy cơ về mất an toàn lao động, dễ xảy ra tai nạn lao động.

Về bảo hiểm xã hội: Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã đề cập khá rõ nhiệm vụ mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện, trong khu vực có quan hệ lao động và khu vực chưa có quan hệ lao động; hỗ trợ kinh phí tham gia bảo hiểm xã hội cho một số đối tượng; nâng cao nhận thức của người lao động về trách nhiệm tham gia bảo hiểm xã hội, tức là tích lũy, tiết kiệm để bảo đảm lương hưu khi không còn khả năng lao động; bổ sung hình thức bảo hiểm hưu trí bổ sung để đáp ứng nhu cầu của người dân; sửa đổi chính sách để bảo đảm an sinh xã hội khi tuổi già và góp phần bảo đảm cân bằng Quỹ Bảo hiểm xã hội. Đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian giao dịch bảo hiểm xã hội, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, nâng cao trách nhiệm của các công chức, viên chức, người lao động ngành bảo hiểm xã hội trong việc phục vụ đối tượng; đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc bảo đảm chất lượng, tính chuyên nghiệp cũng như mức phí chi trả hợp lý.

Thứ tư, hệ thống chính sách pháp luật của Nhà nước cơ bản phù hợp với các Công ước về Quyền con người của Liên hợp quốc và công ước của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) mà Việt Nam đã phê chuẩn, tạo điều kiện, thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế của Việt Nam cũng như tham gia ký kết các hiệp định thương mại song phương, đa phương thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế quan trọng, cốt lõi về quyền con người; 20 công ước của ILO trong đó có 6 công ước cơ bản và 2 công ước cơ bản còn lại đã được đặt ra để nghiên cứu, đánh giá và sẽ ký kết khi điều kiện cho phép. Trong quá trình thực thi, Việt Nam cũng thường xuyên đánh giá, báo cáo theo nghĩa vụ của nước thành viên, trên cơ sở đó thường xuyên bổ sung, sửa đổi và điều chỉnh luật pháp quốc gia để phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và từng bước phù hợp với luật pháp quốc tế.

Thứ năm, nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của người lao động được nâng lên, vai trò của tổ chức công đoàn, nhất là công đoàn cơ sở trong việc đại diện kiến nghị yêu cầu người sử dụng lao động tôn trọng và thực hiện đúng quy định pháp luật lao động ở nhiều nơi được khẳng định và đã bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động, Thông qua việc tuân thủ pháp luật lao động, nội quy, quy chế của doanh nghiệp nên đã tạo phong cách làm việc của người lao động từng bước mang tính chuyên nghiệp, tác phong công nghiệp. Cùng với việc nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, năng suất lao động của nhiều người lao động, nhiều doanh nghiệp được nâng lên và dần tiếp cận với năng suất của cùng mặt hàng, sản phẩm của các nước trong khu vực. Tổ chức chính trị, chính trị - xã hội ở nhiều địa phương đã cùng tham gia tuyên truyền, giải thích, tư vấn chính sách pháp luật cho người lao động, cùng với chính quyền thực hiện nhiều biện pháp để giải quyết tranh chấp lao động và đình công như ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh.

Thứ sáu, đời sống vật chất và tinh thần của người lao động từng bước được nâng lên do sự điều chỉnh mặt bằng lương tối thiểu của Nhà nước, mức tăng tiền lương trên thị trường lao động cũng như việc cạnh tranh nguồn nhân lực giữa các doanh nghiệp ngành, nghề đã dẫn đến việc các doanh nghiệp phải điều chỉnh mức tiền lương thỏa thuận với người lao động. Cùng với việc điều chỉnh tiền lương, nhiều doanh nghiệp còn hỗ trợ tiền đi lại, nhà ở, gửi trẻ... cho người lao động, nhiều doanh nghiệp xây dựng nhà ở cho người lao động. Các cấp ủy, chính quyền địa phương đã tích cực triển khai các giải pháp theo Nghị quyết số 97/NQ-CP, ngày 26-12-2014, của Chính phủ cụ thể hóa Chương trình hành động của Chính phủ triển khai Kết luận số 96-KL/TW, ngày 07-4-2014, của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW, ngày 05-6-2008, của Ban Bí thư khóa X về tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp, trong đó coi trọng việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, nhà ở, công trình phúc lợi cho người lao động, nhất là ở các khu công nghiệp có đông lao động.

Tuy đã đạt được nhiều kết quả trong việc thực hiện chính sách pháp luật đối với người lao động nhưng so với yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật lao động, tổ chức tuyên truyền để người lao động, người sử dụng lao động hiểu biết đầy đủ và tổ chức thực hiện tốt hệ thống chính sách pháp luật lao động mà Nhà nước đã ban hành.

Về việc làm, cần tăng cường các giải pháp để thực hiện chỉ tiêu giải quyết việc làm, nhất là việc làm mới tăng thêm theo hướng việc làm có chất lượng, tăng cường khả năng dự báo về cung cầu nhân lực theo vùng, theo ngành nghề; tăng cường kết nối cung cầu thông qua các Trung tâm dịch vụ việc làm và các tổ chức khác. Thực hiện tốt việc hỗ trợ các đối tượng yếu thế trong tìm kiếm, tạo việc làm, tăng cường công tác tư vấn hỗ trợ đào tạo nghề đối với người lao động bị thất nghiệp để họ sớm có việc làm.

Về dạy nghề, cần tiếp tục hoàn thiện mạng lưới dạy nghề, đầu tư trang thiết bị dạy nghề phù hợp, đổi mới chương trình dạy nghề, nâng cao chất lượng giáo viên, đổi mới công tác tuyển sinh, chuyển mạnh dạy nghề theo nhu cầu của doanh nghiệp, thị trường, có cơ chế liên kết giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp, làng nghề, vùng chuyên canh về nông, lâm, ngư nghiệp.

Về lao động tiền lương, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tiền lương theo nguyên tắc thị trường, hình thành trên cơ sở thỏa thuận; mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp trong việc quyết định tiền lương trên cơ sở năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Tiếp tục thực hiện lộ trình điều chỉnh lương tối thiểu để bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu. Tăng cường đối thoại, thương lượng về thực hiện các quy định của pháp luật lao động nhất là vấn đề tiền lương, bảo hiểm xã hội ở cấp doanh nghiệp khu công nghiệp hoặc cấp ngành. Phát huy tốt vai trò của tổ chức công đoàn cơ sở, hòa giải viên lao động và trọng tài lao động trong hòa giải, giải quyết tranh chấp lao động cá nhân và tập thể.

Về bảo hiểm xã hội, khẩn trương ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, tăng cường tuyên truyền giải thích các nội dung mới của Luật Bảo hiểm xã hội để người lao động, người sử dụng lao động hiểu rõ, tạo sự đồng thuận trong tổ chức thực hiện. Cần xây dựng các giải pháp cụ thể, đồng bộ trong việc phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện, giải pháp hỗ trợ người nông dân tham gia bảo hiểm xã hội, sớm hình thành khuôn khổ pháp lý để phát triển hình thức hưu trí bổ sung. Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc nợ đóng, chậm đóng, chiếm dụng tiền bảo hiểm xã hội của người lao động. Thực hiện cải cách hành chính, tinh giản thủ tục, giảm thời gian giao dịch bảo hiểm xã hội, khẩn trương ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nâng cao chất lượng phục vụ của công chức, viên chức, người lao động ngành bảo hiểm xã hội.

Tiếp tục tăng cường công tác quản lý nhà nước, trước hết là đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật, thực hiện Quyết định số 31/2009/QĐ-TTg, ngày 24-02-2009, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp bằng hình thức phù hợp, hiệu quả hướng đến đối tượng trực tiếp tham gia thụ hưởng chính sách. Tiếp tục đổi mới, đa dạng hóa các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật; phát huy những hình thức hiệu quả đã và đang được triển khai áp dụng trong thực tiễn; nghiên cứu, đề xuất và đưa vào thực hiện những hình thức mới, tiên tiến, hiện đại, phù hợp với nhu cầu của các tầng lớp nhân dân.

Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra; bồi dưỡng kỹ năng trưởng đoàn thanh tra đối với cán bộ, thanh tra viên toàn ngành nhằm tăng hiệu quả các cuộc thanh tra. Chú trọng việc phát hiện những bất cập của chính sách, pháp luật qua công tác thanh tra để đưa ra những kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Tăng cường hơn nữa công tác theo dõi, đôn đốc các đối tượng thanh tra thực hiện nghiêm các kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra để bảo đảm và nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra cũng như chức năng quản lý nhà nước về lao động.

Chủ động nghiên cứu và đánh giá tác động các công ước của Liên hợp quốc và Tổ chức lao động quốc tế để có lộ trình ký kết, thực hiện tốt các công ước đã tham gia ký kết, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực lao động./.