Trung Quốc vừa có một hành động bất hợp pháp, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam. Nó không chỉ trái với luật pháp và thông lệ quốc tế mà còn làm xói mòn lòng tin của cộng đồng thế giới. Vậy là Biển Đông lại “nổi sóng dữ”.

Cần khẳng định rằng việc Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 cùng nhiều tàu hoạt động tại khu vực thuộc Lô dầu khí 143 nằm sâu trong thềm lục địa Việt Nam, đồng thời áp đặt cái gọi là “một vùng cấm xâm nhập đối với mọi tàu thuyền” trong vòng bán kính 4,8 km quanh giàn khoan đó từ ngày 01-5-2014 đến nay, đã ngang nhiên vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các Vùng Đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam.

Nguy hiểm hơn, Trung Quốc cử hàng chục tàu và máy bay hộ tống giàn khoan, gồm cả tàu quân sự và hải giám như tàu hộ vệ tên lửa, tàu tuần tiễu tấn công nhanh... cố tình đâm thẳng vào các tàu thực thi pháp luật của Việt Nam; có những hành vi hung hăng khác như dùng vòi rồng công suất lớn phun nước vào các tàu Việt Nam nhằm gây hư hại tàu thuyền và gây thương tích cho thủy thủ Việt Nam.

Sự xuất hiện ở lãnh hải Việt Nam của giàn khoan bán chìm HD-981 mà một quan chức ngành dầu khí Trung Quốc từng quảng bá là “biên giới di động, lãnh thổ quốc gia di động của Trung Quốc” còn vi phạm trắng trợn Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) mà Trung Quốc đã đặt bút ký, và đặc biệt trái với tinh thần của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 mà Trung Quốc đã tham gia.

Dư luận ở Việt Nam và ngay cả tại Trung Quốc, cũng như trong khu vực và trên thế giới đang hết sức quan ngại về những hành vi nguy hiểm của Trung Quốc trên Biển Đông. Thay vì phải hành động trên cơ sở giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình và phù hợp với các nguyên tắc đã được thừa nhận của luật pháp quốc tế, Trung Quốc lại đưa giàn khoan dầu đến một địa điểm thuộc Vùng Đặc quyền kinh tế của Việt Nam và theo đánh giá của đông đảo dư luận quốc tế, đó là một hành động mang tính khiêu khích, làm căng thẳng leo thang và đe dọa gây bất ổn khu vực.

Không chỉ gây phản ứng từ quốc tế, việc làm đó còn vấp phải sự phản đối từ chính giới học giả Trung Quốc. Trong một bài viết ngày 06-5 trên trang 163.com, học giả hàng đầu Trung Quốc Lý Lệnh Hoa khẳng định Trung Quốc là nước ký Công ước UNCLOS 1982, vì vậy cần hành xử theo Điều 74 và Điều 83 của Công ước, đó là tôn trọng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của các nước xung quanh.

Nhiều nước châu Á và châu Âu đã lên tiếng bày tỏ quan ngại. Tại Tokyo, Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida nhấn mạnh hành động của Trung Quốc “làm gia tăng căng thẳng trong khu vực” và khiến Nhật Bản quan ngại.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Singapore cũng lo ngại về những diễn biến mới tại Biển Đông, kêu gọi các bên tuân thủ DOC và giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế trong đó có UNCLOS năm 1982. Người phát ngôn cho biết, Singapore sẽ tiếp tục kêu gọi ASEAN và Trung Quốc cùng làm việc để sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử tại Biển Đông (COC).

Tại Washington, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ, bà Jen Psaki trong phát biểu trước báo giới ngày 06-5 tuyên bố: “Căn cứ vào lịch sử căng thẳng ở Biển Đông, việc làm của Trung Quốc là hành động khiêu khích và không có lợi cho nỗ lực duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực”. Bà Jen Psaki khẳng định: “Mỹ đang theo dõi sát vụ việc này. Diễn biến mới này càng cho thấy các tuyên bố về chủ quyền của các nước trong khu vực cần phải phù hợp với luật pháp quốc tế và những cam kết đã đạt được, theo đó những hành vi kiểu như vậy không được phép xảy ra trong khu vực có tranh chấp”.

Hãng AFP trong bản tin đưa về tuyên bố trên của Bộ Ngoại giao Mỹ đã dẫn lại lập trường của Việt Nam khẳng định hành động của Trung Quốc là bất hợp pháp, Việt Nam yêu cầu Bắc Kinh rút toàn bộ giàn khoan HD-981 và các tàu, máy bay hộ tống ra khỏi lãnh hải Việt Nam.

Những diễn biến mới trên Biển Đông cũng trở thành tâm điểm bình luận của báo chí thế giới những ngày qua.

Trang mạng Foreign Policy (Mỹ) có bài nhận định việc làm của Trung Quốc cuối tuần qua đã làm leo thang căng thẳng ở Biển Đông. Bài báo viết: “...Dường như đây là lần đầu tiên các công ty dầu khí Trung Quốc ngang nhiên khoan dầu tại vùng lãnh hải mà nước khác tuyên bố chủ quyền. Đây thực sự là điều rất đáng lo ngại”.

Cùng quan điểm này, nhiều tờ báo lớn của Đức như Thế giới (Die Welt), Thời đại (Die Zeit), Tấm gương (Der Spiegel)... trong ngày 07-5 đều đăng tin, ảnh phản ánh thái độ hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông, đồng thời nhấn mạnh việc Trung Quốc đặt giàn khoan tại vùng biển của Việt Nam là “một trong hàng loạt hành động khiêu khích của Bắc Kinh”.

Tại New Delhi, nhà báo Ấn Độ Dipanjan Roy Chaudhury trong bài viết trên tờ Thời báo Kinh tế ngày 07-5 cũng cho rằng việc Trung Quốc kéo giàn khoan vào vùng biển của Việt Nam là nhằm tìm cách gây áp lực. Tác giả nêu rõ cái gọi là “tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc” đã vấp phải sự chỉ trích rộng rãi của quốc tế và là một trở ngại đối với nỗ lực giải quyết tranh chấp trong khu vực, và rõ ràng Bắc Kinh thiếu chứng cứ pháp lý quốc tế và làm đảo lộn luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982.

Báo chí quốc tế còn nhận xét rằng sau những hành vi mang tính khiêu khích từ phía Trung Quốc như ngang nhiên cắt cáp thăm dò của tàu Việt Nam, đơn phương áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá một cách phi lý, thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa”,... nay Tổng Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) đưa giàn khoan hoạt động phi pháp trong Vùng Đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cùng với đó là một loạt tàu quân sự, tàu hải giám... chứng tỏ các động thái từ phía Trung Quốc ngày càng nguy hiểm.

Theo bà Holly Morrow, chuyên gia về Biển Đông của Trung tâm Belfer (trường Đại học Havard, Mỹ), cho dù vì bất kỳ lý do gì thì chủ trương của Bắc Kinh là hành động “mạnh tay” trong các mối quan hệ khu vực cũng sẽ gây thiệt hại. Nữ chuyên gia từ Đại học Havard này cảnh báo rằng “xét về chính sách đối ngoại, cái giá mà họ sẽ phải trả cho những gì mà họ đang làm là rất lớn, cho dù lợi ích an ninh năng lượng mà họ thu được là gì đi nữa”. Trước sự việc nghiêm trọng này, bà Holly Morrow bình luận rằng việc Trung Quốc làm căng thẳng leo thang bằng hành động dựng giàn khoan dầu ở Biển Đông đã thực sự khiến dư luận khó hiểu vì năm 2011, Trung Quốc đã ký với Việt Nam Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển, theo đó hai bên đồng ý giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông một cách hòa bình, thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị.

Vậy phải hiểu hành động của Trung Quốc thế nào đây? Chẳng lẽ họ đã quên (hay cố tình quên) những gì họ đã cam kết và đặt bút ký vào Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày 11-10-2011 tại Bắc Kinh? Và ai đó khi hành động phủ định lời nói của chính mình, người ấy đã tự đánh mất lòng tin ở người khác.

Không những gây ảnh hưởng tới quan hệ song phương, dư luận cho rằng việc Trung Quốc đem giàn khoan vào vùng biển Việt Nam còn là hành động bội tín với cả khối ASEAN, là một sự thách thức đối với “Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về vấn đề Biển Đông” mà tất cả các nước thành viên của khối đã cam kết hồi tháng 7-2012. Với cách hành xử như vậy, liệu Bắc Kinh có xây dựng được hình ảnh một nước Trung Quốc đáng tin cậy trong suy nghĩ của các nước ASEAN? Điều gây quan ngại nữa là tiến trình đàm phán về COC bị đe dọa cản trở, trong khi nhiều nước liên quan đang gắng sức để COC sớm trở thành hiện thực.

Dư luận quốc tế một lần nữa đặt câu hỏi đây có phải là toan tính nhằm hiện thực hóa “đường lưỡi bò” phi lý mà Trung Quốc tự vẽ nên? Và tại sao Trung Quốc cứ làm những việc không có lợi cho hòa bình và ổn định ở Biển Đông như vậy? Dư luận đang cần câu trả lời bởi đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc có những hành động gây thêm phức tạp tình hình tranh chấp trên Biển Đông và cũng không phải là lần đầu tiên họ tiếp cận vấn đề theo kiểu khiêu khích và gây sức ép. Cần khẳng định rằng cách thức suy nghĩ và hành động như vậy đang đi ngược xu thế chủ đạo trên thế giới ngày nay là hợp tác, tôn trọng và tạo dựng lòng tin lẫn nhau để giải quyết hòa bình và hài hòa lợi ích của các bên.

Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và lịch sử khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa và quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa theo các quy định của UNCLOS năm 1982. Những căn cứ pháp lý trải dài theo lịch sử của dân tộc về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa đã được Việt Nam trình Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc tháng 8-2009. Trung Quốc dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa năm 1974, vì vậy việc Trung Quốc khẳng định chủ quyền đối với quần đảo này là vô căn cứ.

Với mong muốn đóng góp tích cực cho hòa bình, phát triển trong khu vực, lấy đại cục trong quan hệ hai nước làm trọng, trong quá trình giải quyết các tranh chấp, kể cả khi tính chất vụ việc trở nên nghiêm trọng, Việt Nam vẫn nỗ lực thực hiện phương châm giải quyết hòa bình các tranh chấp bằng con đường đối thoại. Còn Trung Quốc đã làm gì để “kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác” như tinh thần Thỏa thuận nguyên tắc 6 điểm giải quyết vấn đề Biển Đông được Việt Nam và Trung Quốc ký kết tại Bắc Kinh ngày 11-10-2011, trước sự chứng kiến của lãnh đạo cao nhất của hai Đảng, hai nước. Việc làm của Trung Quốc trong những ngày qua rõ ràng đã làm ảnh hưởng tiêu cực tới sự tin cậy chính trị và làm tổn thương tình cảm của người dân Việt Nam.

Việt Nam là một dân tộc yêu chuộng hòa bình. Các nước trên thế giới, trong đó có Trung Quốc, hiểu rõ nhân dân Việt Nam luôn đoàn kết một lòng và dân tộc Việt Nam chưa bao giờ quỳ gối trước áp lực cường quyền. Việt Nam sẽ áp dụng mọi biện pháp cần thiết và phù hợp để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng, bảo vệ chủ quyền của mình. Với dân tộc Việt Nam, chủ quyền quốc gia là tối thượng. Không ai có quyền xâm phạm độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Biển Đông rất cần những “con sóng hiền hòa” thúc đẩy hữu nghị, hòa bình và phát triển thay vì những “cơn sóng dữ”. Biển Đông cần những suy nghĩ và hành động dựa trên luật pháp, đặc biệt là luật pháp quốc tế, chứ không phải những toan tính và hành vi bất chấp luật pháp./.

Ngày 11-10-2011 tại Bắc Kinh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào cùng hai Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam và Trung Quốc đã chứng kiến lễ ký Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thỏa thuận gồm 6 điều:

1. Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục, dưới sự chỉ đạo của phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đóng góp vào việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc, góp phần duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực.

2. Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên biển.

3. Trong tiến trình đàm phán vấn đề trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung mà lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC). Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam - Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp khác.

4. Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc, thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại Điều 2 của thỏa thuận này.

5. Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng, chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn.

6. Hai bên tiến hành cuộc gặp định kỳ Trưởng đoàn đàm phán biên giới cấp Chính phủ một năm hai lần, luân phiên tổ chức, khi cần thiết có thể tiến hành các cuộc gặp bất thường. Hai bên nhất trí thiết lập cơ chế đường dây nóng trong khuôn khổ đoàn đại biểu cấp Chính phủ để kịp thời trao đổi và xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển.