Những nỗ lực vượt “ải” đói, nghèo
TCCS - Những năm qua, công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam đạt được kết quả khả quan. Điều này đã tạo được bước quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Qua đây, cho thấy, những chính sách, hỗ trợ của Nhà nước là cần thiết, nhưng chưa đủ. Để công cuộc xóa đói, giảm nghèo thực sự nhanh và bền vững, trước hết đòi hỏi sự chủ động, tích cực vươn lên của chính người nghèo.
Để góp phần làm rõ điều đó, Phóng viên Tạp chí Cộng sản đã ghi lại những ý kiến, kinh nghiệm của một số địa phương và người dân từ ba miền đất nước.
1. Ông Bùi Đức Nhẫn - Chủ tịch UBND huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ
“Khai thác và phát huy tốt các nguồn lực, lợi thế của địa phương, giúp người dân thoát nghèo nhanh, bền vững”.
Tân Sơn là huyện nghèo miền núi vùng cao, với gần 77 nghìn người, gồm 8 dân tộc anh em, trong đó có 7 dân tộc thiểu số (Mường, Dao, Mông, Tày...), chiếm 82,3% số dân. Huyện có 14/17 xã, thị trấn thuộc loại đặc biệt khó khăn. Khi mới thành lập, tỷ lệ hộ nghèo chiếm gần 62%. Dù sau một thời gian nỗ lực với cuộc chiến chống đói nghèo, nhưng cuối năm 2008, tỷ lệ hộ nghèo ở Tân Sơn vẫn cao nhất tỉnh (52,42%).
Do vậy, công tác xóa đói, giảm nghèo được Tân Sơn xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển. Sau khi được thụ hưởng ngân sách từ Chương trình “Phát triển kinh tế, xã hội, giảm nghèo nhanh và bền vững giai đoạn 2009 - 2020” (Chương trình 30a), Ban Thường vụ Huyện ủy ra Quyết định số 193-QĐ/HU, ngày 17-2-2009, về thành lập Ban chỉ đạo Chương trình 30a của huyện, đồng thời ban hành Quy chế làm việc của Ban Chỉ đạo, phân công rõ trách nhiệm các ban, ngành và trách nhiệm của các thành viên. Theo đó, huyện tổ chức Hội nghị triển khai Nghị quyết 30a và các văn bản hướng dẫn, đồng thời lồng ghép nội dung vào chương trình các cuộc họp của huyện, xã để tuyên truyền sâu, rộng tinh thần Nghị quyết đến các cấp, các ngành và nhân dân,...
Sau hai năm triển khai thực hiện Nghị quyết, Tân Sơn đã có những bước chuyển khả quan, theo đúng mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với định hướng phát triển. Năm 2010, nông - lâm - thủy sản ước đạt 57,6%; công nghiệp - xây dựng ước đạt 3,4%; dịch vụ ước đạt 39%. Đến nay, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn huyện giảm xuống còn 33,6% (theo chuẩn mới áp dụng cho giai đoạn 2010 - 2015 còn 54,88%), 100% số người nghèo được cấp Thẻ Bảo hiểm y tế. Triển khai chặt chẽ chương trình xóa nhà tạm theo Quyết định 167/QĐ-TTg, ngày 12-12-2008, của Thủ tướng Chính phủ, đến hết năm 2009, huyện đã hoàn thành xóa nhà tạm cho 4.706 hộ (trong đó Chương trình 135 là 3.006 hộ và Chương trình 134 là 1.700 hộ).
Tuy nhiên, để hoàn thành mục tiêu “thoát nghèo nhanh, bền vững”, gắn chặt với việc thực hiện hiệu quả các mục tiêu kinh tế, xã hội do Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ II, nhiệm kỳ 2010 - 2015 đề ra, những năm tới, Tân Sơn tiếp tục xây dựng, điều chỉnh các đề án, dự án phát triển kinh tế, xã hội; xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, điều chỉnh cơ cấu đầu tư nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội; giải quyết tốt chính sách lao động việc làm; tiếp tục thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo; xác định các ngành kinh tế mũi nhọn, các lĩnh vực có tính đột phá.
2. Ông Nguyễn Thái Phiên - Chủ tịch UBND quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
“Tùy theo từng đối tượng cụ thể, quận có cách thức phù hợp nhất để giúp họ thoát nghèo”.
Trong những năm qua, quận Sơn Trà đã tiến hành nhiều giải pháp tích cực trong công tác xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn và đạt được nhiều thành tích đáng kể. Cách làm hiệu quả nhất trong công tác này, là tùy theo từng đối tượng cụ thể, quận có cách thức phù hợp nhất để giúp họ thoát nghèo. Chẳng hạn, đối với các hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nhưng còn khả năng lao động, lãnh đạo quận và các phường đã chủ động tổ chức đối thoại trực tiếp với các hộ này để nắm rõ tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu cần giúp đỡ của từng hộ, từng người, qua đó hỗ trợ phương tiện, vốn làm ăn; hướng dẫn chuyển đổi ngành nghề thích hợp để những hộ này có thu nhập ổn định, vươn lên thoát nghèo bền vững. Quận và các phường đã chủ động thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ bảo hiểm y tế, miễn giảm học phí và hỗ trợ học bổng cho con em họ. Ngoài ra, còn hỗ trợ lắp đặt điện, nước, sửa chữa nhà... nhằm ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống. Từ các giải pháp giúp đỡ nêu trên, trong năm 2010 đã có 1.354 hộ nghèo có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn quận vươn lên thoát nghèo, đạt 121,98% kế hoạch; trong đó có 68 hộ nghèo đặc biệt nghèo thoát khỏi hộ nghèo, đạt 117,24% so với kế hoạch.
Theo tôi, cách làm trên đây chính là một trong những giải pháp quan trọng nhất để xóa nghèo hiệu quả, góp phần phát triển bền vững trên địa bàn quận và thành phố.
3. ng Bùi Ngọc Hoàn - Chủ trang trại ở xã Thu Cúc, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ
“Để thoát nghèo và làm giàu, phải tích cực, chủ động, không trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước”.
Khi mới lập nghiệp (từ năm 1992), gia đình tôi liên tục gặp rủi ro, bất trắc. Khởi đầu là việc vay vốn, về xuôi mua được 10 con trâu nhưng chúng ngã bệnh chết mất 3 con. Sau đó, chúng tôi đắp đập, thả cá, được 2 năm, đến ngày thu hoạch thì bị mưa lũ lớn làm vỡ đập, cá bị cuốn đi hết. Nhưng, với ý chí quyết tâm của bản thân và gia đình, chúng tôi chuyển sang trồng rừng nguyên liệu bao gồm các loại cây như luồng, bạch đàn, keo, chè, quế...
Hiện nay, tổng diện tích rừng gia đình tôi quản lý là 260 héc-ta, trong đó có 100 héc-ta rừng trồng và 160 héc-ta rừng khoanh nuôi. Thu hoạch từ trồng rừng đã cho gia đình một khoản thu nhập và vốn nhất định. Có vốn, tôi mua ô-tô tải, máy xúc, và một số phương tiện phục vụ trang trại, tiếp tục tập trung cho phát triển rừng và chăn nuôi theo hướng bền vững.
Trong quá trình phát triển chăn nuôi, trồng trọt, gia đình thường xuyên tham gia các lớp tập huấn về khoa học - kỹ thuật, chọn giống cây, con phù hợp do cơ quan khuyến nông tỉnh, huyện mở; ứng dụng nhiều kỹ thuật thâm canh mới như: xen canh cây ngô vào trồng tại trang trại nhằm tạo ra rừng sản xuất có chất lượng cao và rút ngắn chu kỳ khai thác, tăng hiệu quả sử dụng đất.
Cho tới thời điểm hiện nay, ước tính giá trị mỗi héc-ta rừng trồng là khoảng 70 triệu đồng. Chỉ tính riêng cây chè, hằng tháng, đem lại thu nhập cho gia đình là 30 triệu đồng, chưa kể các loại cây có giá trị kinh tế cao như quế. Ngoài việc đem lại lợi ích cá nhân, trang trại góp phần làm tăng độ che phủ, tích cực bảo vệ rừng, giải quyết việc làm thường xuyên cho từ 10 đến 15 lao động địa phương với mức tiền công từ 1 triệu đến 1,2 triệu đồng/tháng.
Tới đây, gia đình tôi sẽ tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nhằm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, trước mắt sẽ nghiên cứu trồng các loại cây thuốc phục vụ Đông y. Phát triển trang trại theo hướng trên sẽ phát huy được hiệu quả của đất rừng cũng như phát triển được vùng chuyên canh, có điều kiện để hỗ trợ nhiều hơn cho bà con nhân nhân trong vùng cùng làm ăn, phát triển kinh tế.
4. Bà Hoàng Thị Mỹ Hạnh - phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
“Tìm hướng làm ăn phù hợp với khả năng của bản thân và điều kiện của gia đình”.
Năm 2007, chồng tôi qua đời. Mất lao động trụ cột, gia đình lâm vào hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn mọi bề. Thời điểm này, tôi may mắn được bà con hàng xóm, bạn bè thường xuyên động viên, được các cấp chính quyền quan tâm hỗ trợ. Nhờ biết chút ít về nghề may, từ lâu, tôi có mong muốn mở hiệu. Nay, được sự hỗ trợ của chính quyền (phường trợ cấp mỗi tháng 150 ngàn đồng, quận Sơn Trà hỗ trợ ban đầu 8 triệu), tôi mở hiệu may nhỏ tại nhà vừa may gia công vừa may áo quần cho mọi người xung quanh.
Với nỗ lực vươn lên của bản thân, cùng với sự ủng hộ của bà con hàng xóm, công việc làm ăn của tôi dần khá lên, thu nhập mỗi tháng từ 1,2 - 1,5 triệu đồng, bước đầu ổn định cuộc sống gia đình, 3 đứa con tôi đều ngoan, học khá, cháu đầu đang học năm thứ 2, Đại học Ngoại ngữ Đà Nẵng.
Từ thực tế của gia đình, tôi nhận thấy muốn thoát nghèo trước hết, bản thân người nghèo, hộ nghèo phải có ý chí, nghị lực vượt khó, vươn lên tìm hướng làm ăn phù hợp với khả năng bản thân và điều kiện của gia đình. Thứ hai, phải có sự giúp đỡ, hỗ trợ có hiệu quả của các cấp chính quyền, đoàn thể, tạo điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo có nghề nghiệp, có vốn đầu tư sản xuất - kinh doanh hợp lý để có thu nhập, ổn định cuộc sống. Thứ ba, có sự động viên, cổ vũ của bà con hàng xóm, bạn bè. Ước muốn lớn nhất của tôi hiện nay, là tiếp tục phát huy nghề may hiện tại, tăng thu nhập, ổn định cuộc sống, đảm bảo nuôi dạy các con trưởng thành.
5. Ông Dương Văn Tung - xã Hiệp Lợi, thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang
“Không được học hành đầy đủ, chúng tôi phải cần cù, vượt lên số phận”.
Lập gia đình năm 1992, hai vợ chồng tôi ra ở riêng với gia tài được cha mẹ chồng cho một nền nhà diện tích 50m2 và 10 kg gạo. Rồi những năm kế tiếp, 4 cháu trai ra đời. Mình tôi hằng ngày rong ruổi trên đồng để giăng câu, thả lưới, nhưng không thể kiếm đủ tiền mua gạo nuôi vợ con. Tôi phải tranh thủ làm mướn, ai thuê gì làm nấy.
Cũng do cuộc sống nghèo khổ, không được học hành đến nơi đến chốn, lập gia đình sớm, lại đẻ nhiều, nên hết cảnh khổ này đến khó khăn khác cứ luẩn quẩn không thoát ra được... Nhưng chúng tôi chưa bao giờ có suy nghĩ chịu thua số phận.
Năm 2007, được Hội Phụ nữ cho vay vốn 7.000.000đ từ Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm để nuôi heo. Năm 2008, ấp Láng Sen A thành lập Hợp tác xã “Sân phơi” cho các hộ thuê mướn sân và nhân công phơi lúa. Gia đình có thêm một công việc mới để kiếm sống bằng nghề phơi lúa mướn, thu nhập hằng tháng vỏn vẹn trên dưới 800.000đ/tháng.
Đầu năm 2010, được Nhà nước hỗ trợ xây dựng nhà tình thương từ Chương trình 167 của Chính phủ. Như vậy, cái ở đã bớt phần nặng lo, đây cũng là mơ ước và khát vọng của gia đình từ bao nhiêu năm qua. Tiếp đó, với 13 triệu đồng vốn từ nguồn hỗ trợ qua Chương trình 74 của Chính phủ, cộng số tiền tích cóp lâu nay, gia đình quyết định mua một chiếc thuyền máy và chuyển sang nghề thu gom phế liệu và bán tạp hóa dưới sông. Mỗi ngày trừ chi phí, cũng có lãi từ 60.000đ - 80.000đ, đây là nguồn thu không nhiều nhưng bù lại thu nhập được ổn định hàng ngày. Ngoài ra, chúng tôi dành dụm tiền thuê được 2.000m2 đất nông nghiệp để trồng lúa, hằng năm cung cấp đủ gạo cho gia đình.
Đến nay, gia đình tôi đã có của ăn của để, đồng thời sắm sửa được các vật dụng trong gia đình như: tivi, đầu đĩa, xe gắn máy và cho con trai lớn đi học nghề sửa xe 2 bánh. Và, đã được địa phương công nhận là gia đình thoát nghèo.
6. Ông Trần Văn Tánh - xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
“Bứt lên thoát nghèo từ sự đùm bọc của bà con lối xóm”.
Gia đình tôi là hộ “Nghèo có sổ”, được chính quyền địa phương trợ cấp hằng tháng. Vào những năm 80 của thế kỷ trước, vợ chồng phải bươn trải đủ nghề để có thể lo cho cuộc sống của mình. Chúng tôi làm bất kể việc gì có thể, ngày cũng như đêm, hễ ai cho hay việc là tôi không bao giờ từ chối. Thế nhưng, do không có tư liệu sản xuất nên cố gắng nhiều xong cuộc sống của hai vợ chồng vẫn lận đận lao đao.
Năm 2002, Hội Chữ thập đỏ xã đã hỗ trợ vợ chồng chúng tôi hai con heo nái giống. Với hai con heo nái giống này, mỗi năm Hội khoán trả bằng một nửa số heo con sinh ra. Vậy là, bắt đầu từ đây gia đình tôi có cơ hội thoát nghèo.
Bên cạnh đó, Hội Nông dân còn cho vợ chồng vay tiền để trang trải cuộc sống, từ số tiền vay của Hội, tôi mua bò về nuôi, mong có thêm thu nhập. Với quyết tâm làm giàu, chỉ vài năm sau, trong nhà chúng tôi heo luôn đầy chuồng và bò đầy vườn. Với phương châm tích tiểu thành đại, vợ chồng tôi tích lũy đến năm 2006 thì xây được ngôi nhà khang trang và mỗi năm gia đình có thể thu về hơn 140 triệu đồng.
Gia đình tôi không bao giờ quên ơn chính quyền và những người đã giúp mình. Khi đã dư giả, nhà có của ăn của để, tôi luôn quyên góp để giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn như mình trước đây.
Cả ba cháu nhà tôi đều được học đại học, hai đứa đã tốt nghiệp. Hiện nay, tôi tham gia Hội Chữ thập đỏ và Tổ Y tế ấp 3 để có điều kiện chăm sóc cho những người xung quanh, như ngày xưa tôi đã từng được các đoàn thể yêu thương, giúp đỡ.
7. Ông Hoàng Minh Hận - Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy xã Thu Cúc, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ
“Cần xây dựng các mô hình phù hợp để người nghèo áp dụng, làm theo”.
Là xã miền núi nằm ở phía Tây Bắc của huyện Tân Sơn, Thu Cúc có diện tích tự nhiên là 10.040 ha, với 9.785 nhân khẩu gồm 4 dân tộc anh em sinh sống (Kinh, Mường, H’Mông, Dao).
Năm 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế của xã là 10%; tổng giá trị sản xuất các ngành kinh tế là 58,71 tỉ đồng; giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp ước đạt 22,7 tỉ đồng (chiếm 39%); giá trị sản xuất dịch vụ đạt 30 tỉ đồng (chiếm 51%); giá trị sản xất công nghiệp, xây dựng đạt gần 6,1 tỉ đồng (chiếm 10.23%); tổng sản lượng lương thực là 5.192.62 tấn.
Được sự quan tâm đầu tư của Nhà nước qua Chương trình 135 giai đoạn II, bằng việc đầu tư xây dựng các mô hình, cung ứng các chủng loại cây, con giống mới cho năng suất, sản lượng cao, người dân Thu Cúc từng bước biết áp dụng các biện pháp khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, các phong tục tập quán canh tác trước đây dần được xóa bỏ, các giống, cây, con tại chỗ cho năng suất, sản lượng kém được thay thế. Người dân được làm quen dần với việc sản xuất hàng hóa. So với năm 2006 và các năm trước đây, qua 5 năm thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II, Thu Cúc đã có nhiều sự thay đổi lớn: Cuộc sống của nhân nhân ngày càng tăng lên, khoảng cách giữa các hộ giàu nghèo ngày càng thu hẹp, hộ nghèo đói hằng năm đều giảm (năm 2005 là 1.278 hộ, đến năm 2009 còn 973 hộ), cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi có nhiều chuyển biến. Đến nay, số hộ sử dụng các loại cây, con giống cho năng suất sản lượng cao đạt trên 90%, cơ bản đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Đặc biệt, trên địa bàn xã xuất hiện nhiều mô hình trang trại kết hợp giữa trồng rừng với sản xuất, chăn nuôi quy mô tương đối lớn. Đảng ủy, chính quyền Thu Cúc xác định, cần khuyến khích và tạo điều kiện cho những mô hình này, từ đó bà con nhân dân học tập, làm theo, tạo thành phong trào. Qua đó, không những giúp người dân xóa đói giảm nghèo mà diện mạo kinh tế, xã hội của địa phương mới có sự thay đổi nhanh chóng, tích cực./.
Chiến lược đối ngoại của Nga năm 2011  (01/02/2011)
Đã tới lúc cần tư duy lại, thay đổi và cải tổ thế giới  (31/01/2011)
Mừng Đảng, mừng Xuân, mừng đất nước đổi mới  (31/01/2011)
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã tới dâng hương tưởng niệm Bác Hồ tại Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch  (31/01/2011)
Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng thăm, chúc Tết tại Bến Tre  (31/01/2011)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm