Đến nay, diện tích cà phê ở Việt Nam đã tăng lên đáng kể, đạt trên 500.000 ha; năng suất và chất lượng cà phê Việt Nam đã được khẳng định trên thị trường quốc tế; sản lượng cà phê xuất khẩu đạt khoảng 850.000 tấn mỗi năm và có mặt tại hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong hội nhập kinh tế quốc tế, cà phê là một trong những mặt hàng mũi nhọn của nền kinh tế. Tuy nhiên, lực lượng sản xuất chủ yếu là các nông trường cà phê hiện đang gặp nhiều khó khăn. Bởi vậy, việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới để nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực này là việc cấp thiết.

Những bước chuyển mình ban đầu trong quá trình đổi mới

Trước yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế, ngành cà phê Việt Nam đang đứng trước những thách thức mới. Một trong những thách thức đó là làm gì để duy trì, phát triển những doanh nghiệp trồng, chế biến cà phê trong nền kinh tế thị trường hiện đại.

Cuộc khủng hoảng cà phê giai đoạn 1999 - 2003 thực sự là thảm họa hủy diệt ngành cà phê. Hàng chục nghìn héc-ta cà phê đã bị chặt bỏ hoặc bỏ quên, không được chăm sóc do giá cà phê xuất khẩu chỉ bằng 1/3 giá thành sản xuất. Hầu như tất cả các nông trường trồng và sơ chế cà phê đều lâm vào tình trạng nợ nần chồng chất. Chiến lược cũng như kế hoạch phát triển ngành công nghiệp chế biến cà phê hoàn toàn bị phá sản, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực cho ngành bị lãng quên, mọi nỗ lực trong việc tổ chức, sắp xếp, đổi mới và phát triển những doanh nghiệp cà phê bị chậm lại.

Trước tình hình đó, Đảng và Chính phủ đã thực sự quan tâm, lo lắng đến ngành cà phê nói chung và Tổng Công ty Cà phê Việt Nam nói riêng. Nghị định số 170/2004/NĐ-CP, ngày 24-9-2004, của Chính phủ về việc sắp xếp, đổimới và phát triển nông trường quốc doanh và Nghị định số 135/2005/NĐ-CP của Chính phủ về việc giao khoán đất nông nghiệp, đất rừng sản xuất và đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản trong các nông, lâm trường quốc doanh đã được ban hành. Chủ trương mới đã thổi một luồng sinh khí mới cho ngành cà phê, nhất là trong việc đổi mới cơ chế khoán đất và khoán vườn cây trong các nông trường. Xử lý nợ tồn đọng và cơ cấu lại tài chính cho các nông trường trồng cà phê thuộc Tổng Công ty Cà phê Việt Nam cũng đã được Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực thi... Thời gian gần đây, các bộ, ngành trung ương và địa phương đã quan tâm hỗ trợ khâu quản lý chất lượng cà phê, lộ trình thực hiện tiêu chuẩn 4193/TCVN và những khuyến cáo hạn chế trồng cà phê tự phát, không theo quy hoạch.

Những thay đổi có tính chất bước ngoặt đối với các cơ sở trồng cà phê, có thể nói, là ở Đề án sắp xếp, đổi mới nông trường quốc doanh theo Nghị định số 170/2004/NĐ-CP đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt đối với từng đơn vị, bước đầu tạo cơ sở pháp lý để các nông trường ổn định quy hoạch đất đai, mạnh dạn đầu tư thâm canh cũng như chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; ổn định và sắp xếp lực lượng lao động và từng bước thực hiện kế hoạch phát triển sản xuất.

Đó thực sự là những điều kiện cần thiết, bước đầu khơi dậy những lợi thế so sánh đang tiềm ẩn trong nhân dân để các doanh nghiệp cà phê Việt Nam đứng vững trước cơ chế thị trường. Song, để phát triển bền vững và chủ động hội nhập sâu vào kinh tế quốc tế sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp trồng và chế biến cà phê phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và toàn diện hơn nữa mới đáp ứng các yêu cầu phát triển bền vững và chủ động hội nhập thành công.

Tiếp tục tìm hướng đi thích hợp

Cổ phần hóa là lộ trình tất yếu đối với các doanh nghiệp nhà nước, khi nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Song, đối với các nông trường cà phê nước ta hiện nay, cổ phần hóa liệu có khả thi hay không? Các nông trường vừa có thể phát triển, hội nhập, vừa có thể thực hiện được một phần nhiệm vụ xã hội được hay không? Đó là những câu hỏi lớn mà lãnh đạo các nông trường cà phê cũng như Tổng Công ty Cà phê Việt Nam đang rất trăn trở.

Cổ phần hóa tuy là một chủ trương đúng đối với nhiều loại hình doanh nghiệp không thuộc diện Nhà nước phải nắm giữ 100% vốn, và là một xu thế phát triển mới, hiện đại về quan hệ sở hữu. Thế nhưng, nông trường cà phê có những đặc thù, theo chúng tôi, việc tiến hành cổ phần hóa trong giai đoạn hiện nay chưa hội đủ các điều kiện tiên quyết, trước hết vì mấy lý do chính như sau:

- Tình hình tài chính của các nông trường chưa đủ mạnh, tài sản chủ yếu là vườn cây cà phê đã được đầu tư từ lâu nên nay đã quá già cỗi (khoảng 70% số vườn cà phê có độ tuổi 20 năm, trong khi đó một chu kỳ của cây cà phê trung bình là 25 - 30 năm);

- Cơ sở chế biến không có, hầu hết các nông trường cà phê thuộc Tổng Công ty Cà phê Việt Nam đang thực hiện nhiệm vụ sơ chế và xát khô;

- Hầu hết các nông trường chưa thực sự năng động hoặc gặp khó khăn trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đa dạng hóa sản phẩm, ngành hàng, dịch vụ...

Vậy nên, dù đổi mới, chuyển đổi theo hình thức nào thì vấn đề quan trọng là phải phân loại, đánh giá đúng tình trạng hoạt động hiện nay của doanh nghiệp để lựa chọn phương án hay hình thức phù hợp mới bảo đảm thành công. Đối với các nông trường cà phê trong Tổng Công ty hiện nay, tạm thời có thể phân loại thành 3 nhóm đối tượng:

Đối tượng thứ nhất: Những nông trường được sắp xếp và được xử lý nợ đối với các nông trường viên, song tình hình tài chính, đặc biệt là công nợ đối với ngân hàng, thì còn nhiều khó khăn. Nếu dựa vào bản thân nội lực của đơn vị thì không thể khắc phục nổi tình trạng khó khăn hiện nay.

Đối tượng thứ hai: Những nông trường có lực lượng lao động thường xuyên đóng bảo hiểm xã hội là đồng bào dân tộc thiểu số, trung bình chiếm khoảng 30%, nông trường lại đang đứng chân ở những địa bàn giáp biên giới, vùng đặc biệt khó khăn.

Đối tượng thứ ba: Những nông trường bước đầu có thể tự chủ về tài chính, có hướng phát triển phù hợp với cơ chế thị trường.

Với thực trạng như trên, qua nghiên cứu và bàn bạc trong ban lãnh đạo của Tổng Công ty cà phê Việt Nam, bước đầu chúng tôi có thể đưa ra một số giải pháp thích hợp nhằm chuyển đổi đối với từng nhóm đối tượng như sau:

Giải pháp đối với đối tượng thứ nhất: Thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, bao gồm: Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp thuộc Bộ Tài chính; đơn vị chủ quản của nông trường; và cán bộ công nhân viên nông trường.

Thực hiện lộ trình thành lập theo các bước sau:

- Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp - Bộ Tài chính đàm phán với các ngân hàng thương mại để mua lại toàn bộ số nợ của các doanh nghiệp, sau đó cân đối chuyển thành vốn góp vào Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH).

- Công ty mua bán nợ cùng với tài sản tồn đọng của doanh nghiệp cùng với đơn vị chủ quản của nông trường thuê Công ty tài chính trung gian kiểm toán, báo cáo tài chính tại thời điểm và tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp xác định vườn cây cà phê đã được Bộ Tài chính và Bộ Nông nghiệp vàPhát triển nông thôn phê duyệt.

- Lập phương án thành lập công ty trình các cơ quan chức năng có thẩm quyền phê duyệt.

Giải pháp đối với đối tượng thứ hai: Chuyển đổi hoạt động thành công ty TNHH nhà nước một thành viên, vừa hoạt động sản xuất, kinh doanh vừa thực hiện một phần nhiệm vụ công ích. Cụ thể, Nhà nước thông qua đại diện chủ sở hữu, thực hiện việc giao chỉ tiêu kế hoạch thu nộp, đóng góp hằng năm cũng như thực hiện trách nhiệm trực tiếp đầu tư cho sản xuất. Giá cà phê lên xuống không tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị.

Giải pháp đối với đối tượng thứ ba: Thực hiện chuyển đổi thành công ty cổ phần theo hai bước:

Bước thứ nhất: Thành lập công ty TNHH nhà nước một thành viên; tập trung mọi nguồn lực của đơn vị cũng như sự trợ giúp của Chính phủ, thông qua đề án nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cà phê Việt Nam để đầu tư cải tạo vườn cây theo hướng trẻ hóa cũng như cơ sở chế biến có quy mô vừa vànhỏ, bảo đảm chế biến càphê đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.

Huy động vốn của cán bộ công nhân viên và một phần vốn của đơn vị đầu tư vào các ngành dịch vụ như: chế biến nông sản, bảo vệ thực vật,... Bước đầu chủ động thực hiện đa dạng hóa sản phẩm, ngành nghề kinh doanh.

Tham gia góp vốn vào những công ty sản xuất, kinh doanh, chế biến cà phê, nông sản có quy mô lớn, xuất khẩu chủ lực và có uy tín.

Bước thứ hai: Chuyển đổi thành công ty cổ phần theo mô hình: cổ phần hóa cơ sở chế biến gắn với vườn cây càphê.

Muốn thực hiện tốt các lộ trình như trên, Tổng Công ty kiến nghị Chính phủ, các bộ, ngành liên quan một số nội dung sau:

- Chính phủ cho phép áp dụng cơ chế đặc thù đối với người lao động được mua cổ phần ưu đãi như Nghị định số 109/2007/NĐ-CP, ngày 26-6-2007, của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần khi nhóm đối tượng một thành viên chuyển thành công ty TNHH hai thành viên trở lên; cho phép Tổng Công ty được thành lập Quỹ Bảo hiểm rủi ro về giá cà phê trên cơ sở trích một phần giá trị từ tỷ lệ %/tấn sản phẩm khi xuất khẩu.

- Bộ Tài chính nên chỉ đạo Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp tích cực tham gia vào việc cân đối tài chính của các nông trường thông qua việc các ngân hàng mua nợ.

- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nên sớm trình Chính phủ thông qua Đề án nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cà phê Việt Nam./.