TCCS - Khoa học - công nghệ phát triển và được ứng dụng mạnh mẽ vào lĩnh vực nông nghiệp, tạo ra sản phẩm hàng hóa có giá trị cao là giải pháp hàng đầu giúp người dân vùng nghèo giảm nghèo nhanh.

Những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp đã đạt được những tiến bộ vượt bậc: từ một nền nông nghiệp tự cung tự cấp đang chuyển dần sang nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa với nhiều thế mạnh. An ninh lương thực trong nước được bảo đảm và đứng hàng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo, xuất khẩu cà-phê, xếp thứ tư về xuất khẩu cao- su, dẫn đầu thế giới về xuất khẩu điều, hồ tiêu.

Thành tựu sản xuất nông nghiệp qua giá trị tổng sản phẩm xã hội tăng tương đối ổn định và liên tục, đạt bình quân khoảng 4,2% - 4,5%/năm. Thu nhập bình quân thực tế theo đầu người cũng tăng và đạt trên 1.200 USD. Tỷ lệ hộ đói nghèo hằng năm giảm đều từ 2% - 3%, đến năm 2009 còn khoảng 14,5% (theo chuẩn nghèo mới).

Trong thành tựu phát triển đó, khoa học - công nghệ đóng vai trò to lớn, có tính then chốt. Đó là:

Khoa học - công nghệ đã góp phần thúc đẩy sản xuất nông phẩm hàng hóa. Trong trồng trọt, nhiều giống mới (kể cả giống có ưu thế lai) được chọn tạo đưa vào sản xuất với tỷ lệ cao trên đơn vị diện tích gieo trồng như: giống mới với lúa thuần 75% - 80% diện tích; giống lúa lai 20% - 25%; giống lúa chất lượng cao 30% - 40%; ngô lai 80%; giống điều đã qua chọn lọc 35%; giống chè mới 40%; giống mía mới 60%; đậu tương mới chiếm 50 - 60%; giống lạc mới 40% - 50%; giống bông lai 30%; giống rau, đậu cao cấp chiếm 60%... Nhiều quy trình kỹ thuật canh tác mới, công nghệ tiên tiến như nuôi cấy mô tế bào, trồng cây trong nhà lưới, nhà kính, kỹ thuật phòng trừ dịch hại tổng hợp (IPM)... được nghiên cứu, áp dụng, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm, tạo được sức cạnh tranh trên thị trường.

Chăn nuôi thực hiện chương trình cải tạo đàn giống như Sind hóa đàn bò, nạc hóa đàn lợn đang đem lại những thay đổi lớn về chất lượng tổng đàn. Hiện nay, đàn bò lai mới giống bò có u chiếm khoảng trên 75% so với tổng đàn. Đàn lợn lai 2 - 3 máu chiếm khoảng trên 80% tổng đàn. Nhiều giống gia súc bản địa như bò vàng, gà H’Mông, lợn Móng Cái... được phục tráng phát triển, tạo nên những sản phẩm hàng hóa đặc sản, có giá trị cao.

Trong nuôi trồng thủy sản, nhiều giống tôm, cá mới được nuôi trồng theo phương thức sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Việc chuyển giao công nghệ về giống, nuôi thả, thức ăn và công nghệ chế biến cá da trơn và tôm đông lạnh đã trở thành yếu tố quyết định bảo đảm lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu ở thị trường Mỹ và EU.

Lâm nghiệp có nhiều giống cây có giá trị đã được chọn tạo, kỹ thuật nhân giống vô tính như kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào, kỹ thuật giâm cành đã cung cầp hàng triệu cây giống chất lượng cao phục vụ cho công tác phát triển rừng hàng hóa, bảo tồn phát triển được nhiều giống cây lâm nghiệp, cây dược liệu quý có nguy cơ tuyệt chủng như thông Đỏ, sâm Ngọc Linh... Phổ biến rộng rãi trồng tre lấy măng, keo lai, cây nem trên đất rừng sản xuất theo hướng thâm canh đã tăng thêm các nguồn nguyên liệu cho nhà máy và cho sản phẩm thương mại.

Cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh. Tỷ lệ cơ giới hóa trồng lúa đạt 72%, mía, ngô, đậu lạc 65% trên tổng diện tích gieo trồng. Các khâu: tưới nước đạt 85%, tuốt lúa 84%, vận chuyển 66%, phơi sấy 38,7%, thu hoạch lúa 15%, xay xát 95%, làm đất 80% - 90%. Cả nước có 1.267 cơ sở phân phối máy nông nghiệp với 28.000 chuyên doanh, 1.218 cơ sở sản xuất, sửa chữa, bảo dưỡng máy nông nghiệp với đội ngũ 14.146 công nhân. Nhà nước đã cho nông dân vay 818,72 tỉ đồng mua máy móc phục vụ sản xuất, chế biến. Đồng bằng sông Cửu Long đã có 10.000 máy gặt đập liên hợp.

Trong lĩnh vực chế biến sau thu hoạch, chúng ta đã đầu tư hơn 40.000 tỉ đồng trong 10 năm (ngân sách Nhà nước 5.000 tỉ đồng, vốn tín dụng 23.000 tỉ đồng, dân doanh 14.000 tỉ đồng) để áp dụng công nghệ giảm tổn thất sau thu hoạch của lúa còn 5% - 6% (trước đây là 11% - 13%); cải thiện giá bán cà-phê thương phẩm, giảm tổn thất xuống còn 10%, thủy sản cũng giảm còn 10% (so với 20% - 25% trước đây).

Bước đầu hình thành các khu, điểm nông nghiệp công nghệ cao với quy trình ứng dụng công nghệ mới như trồng hoa chất lượng cao, tạo giống sạch bệnh, gieo trồng trong nhà lưới, có kho mát bảo quản, đóng gói... Đã áp dụng trên 1.000 ha ở Vĩnh Phúc, 600 ha ở Lâm Đồng, 1.000 ha ở Thành phố Hồ Chí Minh tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa có số lượng lớn, giá trị cao cho thị trường trong nước và xuất khẩu.

Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, trong đó vai trò của khoa học - công nghệ có tính then chốt là một định hướng quan trọng. Vai trò của kinh tế nông nghiệp trong tương lai vẫn mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta trên đường đổi mới và phát triển.

Chương trình xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và miền núi đã tạo động lực phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa.

Chương trình này do Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý. Giai đoạn 2004 - 2010 đã triển khai 288 dự án ở 60 tỉnh, thành phố với tổng kinh phí 793.917 triệu đồng, trong đó ngân sách trung ương 39,7%, còn lại 60,3% là ngân sách địa phương. Nổi bật là:

- Công nghệ phục vụ trồng trọt, triển khai 117 dự án, đào tạo 520 kỹ thuật viên cơ sở, huấn luyện cho 17.496 lượt nông dân, tiếp nhận 163 quy trình để chuyển giao công nghệ, xây dựng 191 mô hình trình diễn;

- Về phục vụ sản xuất giống, triển khai 30 dự án về nuôi trồng thủy sản, đào tạo 65 kỹ thuật viên, tập huấn cho 967 hộ nông dân, chuyển giao 27 quy trình công nghệ sản xuất giống và nuôi trồng thủy sản;

- Trong phục vụ trồng trọt kết hợp chăn nuôi, thủy sản, triển khai 21 dự án, đã chuyển giao và tiếp nhận 48 quy trình, đào tạo 172 kỹ thuật viên, tập huấn cho 2.670 lượt nông dân;

- Đối với công nghệ sinh học, triển khai 47 dự án, đào tạo 369 kỹ thuật viên, tập huấn cho 848 lượt nông dân, tiếp nhận và chuyển giao 118 quy trình, xây dựng 368 mô hình và 5 dây chuyền sản xuất phân bón;

- Để phục vụ chế biến, thực hiện 17 dự án, đào tạo 205 kỹ thuật viên cơ sở, tập huấn cho 450 nông dân, tiếp nhận và chuyển giao 26 quy trình công nghệ về chế biến, bảo quản mặt hàng thủy sản khô và đông lạnh;

- Trong xử lý nước sạch, triển khai 16 dự án, đào tạo hơn 130 kỹ thuật viên, tập huấn 2.650 lượt người, xây dựng 25 mô hình;

Phân vùng quy hoạch trong nông nghiệp là cơ sở để đưa các quy trình công nghệ vào sản xuất hàng hóa chất lượng cao, quy mô lớn; đồng thời là hướng đi giúp nông dân giảm nghèo nhanh, bảo đảm phát triển bền vững với việc giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội.

- Trong công nghệ thông tin, triển khai 13 dự án nhằm phổ biến thông tin khoa học công nghệ tới tận người dân, đào tạo 225 kỹ thuật viên cơ sở, tập huấn 1.189 cán bộ và nông dân về công nghệ thông tin.

- Về công tác đào tạo, huấn luyện cho 1.566 kỹ thuật viên cơ sở, tập huấn 35.136 lượt nông dân, tổ chức hàng chục cuộc hội thảo, hàng trăm cuộc tham quan đầu bờ.

Mặc dù vậy, hiện nay khoảng 70% số dân ở nước ta là nông dân, sinh kế chủ yếu nhờ vào sản xuất nông nghiệp, địa bàn nông thôn mà trọng điểm là vùng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số vẫn là nơi chiếm tỷ lệ nghèo cao nhất. Cả nước có 62 huyện đang được thụ hưởng Chương trình 30a của Chính phủ, số hộ nghèo vẫn còn trên 50%. Nỗ lực giảm nghèo của Đảng và Nhà nước ta những năm vừa qua đã mang lại kết quả to lớn, nhưng số hộ nghèo được công bố năm 2009 vẫn là 11%. Theo Tổng cục Thống kê, mức chuẩn hộ nghèo mới được áp dụng từ năm 2011 ở khu vực nông thôn với mức thu nhập 401.000đ - 520.000đ/tháng thì số hộ nghèo cả nước từ 2 triệu hộ (khoảng 10%) sẽ tăng lên khoảng 3,3 triệu hộ (khoảng 15%). Điều đó khiến chúng ta chưa thể vui!

Trong khi đó, sản xuất nông nghiệp về cơ bản vẫn còn là nền sản xuất nhỏ, manh mún; chưa quy hoạch được nhiều vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung để đầu tư thâm canh theo chiều sâu. Năng suất cây trồng, vật nuôi còn thấp.

Đời sống vật chất và tinh thần của nông dân còn thấp, họ chưa được đáp ứng nhu cầu thông tin cần thiết về thị trường và khoa học - công nghệ. Chất lượng lao động ở khu vực nông thôn thấp do chưa được đào tạo, nhất là nông dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số thuộc diện đặc biệt khó khăn lại càng ít có cơ hội tiếp xúc với khuyến nông để nhận được sự chuyển giao công nghệ và tiến bộ kỹ thuật.

Cơ chế chính sách chưa khuyến khích được nhiều doanh nghiệp tham gia sản xuất nông phẩm hàng hóa. Trong khi họ chính là nhân tố cốt lõi tham gia thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa.

Việt Nam có một số nhà máy chế biến nông sản nhưng đa số quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới, chưa có khả năng chế biến sâu. Đa số nông sản của ta vẫn chỉ dừng lại ở dạng nguyên liệu hoặc bán thành phẩm, nên giá bán rất thấp so với sản phẩm cùng loại của thế giới.

Những yếu tố trên đang là thách thức đối với sự phát triển và đổi mới của nông dân, nông nghiệp nông thôn, nơi/địa bàn luôn ở chỉ số nghèo cao trong mặt bằng xã hội; là đòi hỏi đối với khoa học - công nghệ một cách cấp bách, đáp lại xứng đáng khát vọng của nông dân nghèo.

Đảng ta xác định: Xây dựng nền nông nghiệp theo hướng hiện đại; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển các đô thị; nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho cư dân nông thôn, nhất là vùng miền núi, vùng dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn; đổi mới cơ chế chính sách huy động các nguồn lực; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước về phát triển nông nghiệp nông thôn... Trong đó hai nhóm giải pháp quan trọng và là đổi mới hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ, quy hoạch vùng sản xuất nông sản hàng hóa dựa vào thế mạnh của từng vùng. Phát triển nhanh nghiên cứu khoa học - công nghệ, chuyển giao ứng dụng vào thực tiễn sản xuất đời sống nông thôn để tạo ra nhiều nông phẩm hàng hóa, tăng giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích, trên sức lực lao động và đầu tư, sáng kiến và kinh nghiệm của người nông dân là những nhóm giải pháp quan trọng và then chốt.

Đó là cách tốt nhất và nhanh nhất để giúp người nông dân giảm nghèo nhanh, bền vững và sống sung túc trên mảnh đất sinh kế của mình./.