TCCS - Cách đây 35 năm, dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng Nhân dân cách mạng Lào (NDCM), nhân dân Lào anh hùng đã tiến hành cuộc đấu tranh anh dũng, kiên cường và đầy gian nan, thử thách, lật đổ ách thống trị thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, lập nên nước CHDCND Lào (ngày 2-12-1975). Từ đó đến nay, dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, nhân dân các bộ tộc Lào khẩn trương bắt tay vào khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.

Những thành tựu xây dựng và phát triển

1 - Về kinh tế - xã hội

Sau khi giải phóng hoàn toàn đất nước, một trong những nhiệm vụ cốt yếu hàng đầu của Nhà nước Lào là tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân. Nhận thức rõ vị trí, vai trò của mình đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng NDCM Lào sớm đề ra nhiều chủ trương, biện pháp để phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ năm khóa II (tháng 2-1978) Đảng NDCM Lào nhấn mạnh: “... Ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, tổ chức lại sản xuất, đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng; đồng thời tranh thủ viện trợ quốc tế, nhằm đáp ứng các yêu cầu cần thiết của nhà nước và của nhân dân, làm cho tình hình kinh tế tài chính và đời sống nhân dân ổn định...”(1). Theo chủ trương đó, nhân dân các bộ tộc Lào đã phát huy hết tinh thần, trách nhiệm của mình, khai thác mọi thế mạnh, tiềm năng sẵn có vào phát triển sản xuất, từng bước đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khó khăn sau chiến tranh.

Để đưa đất nước phát triển nhanh hơn nữa, dần hòa nhịp vào sự phát triển của khu vực và thế giới, Đại hội IV (năm 1986) của Đảng NDCM Lào đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Về kinh tế - xã hội, Đại hội chỉ rõ: “...Từng bước tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng thành công cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội...”(2). Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới, kinh tế Lào phát triển khá mạnh. Tổng kết 20 năm đổi mới, Nghị quyết Đại hội VIII (năm 2006) của Đảng NDCM Lào chỉ rõ: Trong 20 năm qua, Lào đạt tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình quân 6,2%/năm, tổng sản phẩm quốc nội tính theo đầu người tăng hơn 2 lần, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao rõ rệt. Những năm tiếp theo, với chủ trương phát triển nông - lâm - nghiệp gắn chặt với công nghiệp, dịch vụ một cách mạnh mẽ và có trọng điểm, kinh tế Lào luôn đạt mức tăng trưởng cao. GDP năm 2007 đạt 8%, năm 2008: 7,9%, năm 2009: 7,6%. Trong 6 tháng đầu năm 2010, mặc dù chịu tác động của khủng hoảng kinh tế nhưng GDP của Lào vẫn đạt mức tăng trưởng 7,6%. Mục tiêu phấn đấu của Lào đến năm 2020 là thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển, GDP bình quân tăng khoảng 7,5% - 8%/năm, thu nhập bình quân đầu người đạt 1.700 - 1.800 USD.

Nhằm tạo đột phá cho nền kinh tế, Lào không ngừng mở rộng việc hợp tác giao lưu, thúc đẩy phát triển kinh tế với nhiều nước, đặc biệt là với Việt Nam. Tính đến năm 2007, Việt Nam đứng thứ 3 trong số 38 nước và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Lào, với khoảng 70 dự án, trị giá khoảng 516 triệu USD. Trong 6 tháng đầu năm 2010, có gần 220 dự án đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam được Chính phủ Lào cấp phép với tổng vốn đầu tư hơn 2,4 tỉ USD. Cùng với đó, kim ngạch thương mại hai chiều 6 tháng đầu năm 2010 đạt 212 triệu USD, trong đó, xuất khẩu đạt 91 triệu USD, nhập khẩu đạt 121 triệu USD. Hai nước hiện đang hướng tới mục tiêu kim ngạch thương mại hai chiều đạt 2 tỉ USD vào năm 2015.

Đi đôi với phát triển kinh tế, Lào đã đẩy mạnh phát triển các hoạt động xã hội, tạo ra sự hài hòa trong phát triển. Với chủ trương coi giáo dục là điểm mấu chốt trong việc xây dựng xã hội Lào văn minh hiện đại, ngành giáo dục Lào đã có bước tiến dài. Hệ thống giáo dục hằng năm đã đào tạo ra một số lượng lớn cán bộ có chuyên môn phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đặc biệt, để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngoài số tự đào tạo được, hằng năm Lào còn gửi hàng ngàn học sinh, sinh viên ra nước ngoài học tập. Riêng với Việt Nam, hợp tác giáo dục - đào tạo phát triển nguồn nhân lực được ưu tiên và mở rộng với nhiều hình thức, được thực hiện từ trung ương tới các bộ, ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp. Mỗi năm, Việt Nam tiếp nhận khoảng 650 học sinh Lào và hiện có tới gần 5.000 du học sinh Lào đang học tập tại Việt Nam. Nhờ đó, trình độ của cán bộ Lào không ngừng tăng lên. Nếu năm 1995, số cán bộ có trình độ trên đại học của Lào chỉ có 0,45%, cao cấp và đại học là 15,16%, không có tiến sĩ và phó tiến sĩ, thì chỉ trong vòng 11 năm (1995 - 2006), Lào đã có 275 tiến sĩ, 2.017 phó tiến sĩ; 13.833 thạc sĩ, đại học; 14.905 cán bộ có trình độ lý luận chính trị cao cấp...

Với mục đích nâng cao hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, việc chăm sóc sức khỏe, xây dựng môi trường, không gian văn hóa mang đậm tính dân tộc luôn được Đảng, Nhà nước Lào chú trọng. Hằng năm, Lào tập trung xây dựng, nâng cấp các bệnh viện từ trung ương đến địa phương, tiến hành cải tạo, nâng cấp các cơ sở khám chữa bệnh ở tuyến dưới... Bên cạnh đó, các hoạt động văn hóa - xã hội, thể dục, thể thao cũng được đẩy mạnh. ở hầu hết các bản làng, ngoài các hoạt động văn hóa truyền thống, việc xây dựng đời sống văn hóa mới đã dần xóa bỏ được các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan... trong đời sống nhân dân, làm cho nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, từ đó họ nhận thức được vai trò và trách nhiệm của mình trong việc xây dựng một nước Lào phồn vinh, giàu mạnh.

2 - Về quốc phòng - an ninh

Sau khi kết thúc 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân các bộ tộc Lào được sống trong hòa bình, tự do, nhưng sự đe dọa của các thế lực thù địch ở cả bên trong và bên ngoài vẫn còn rất lớn, bởi vậy hơn lúc nào hết, “...nhiệm vụ quốc phòng, an ninh vẫn là nhiệm vụ hàng đầu và quan trọng số một”(3). Tầm quan trọng của quốc phòng, an ninh được Hội nghị Trung ương 4 khóa II (tháng 2-1977) khẳng định, là phải: “...Thường xuyên nâng cao cảnh giác, tăng cường lực lượng an ninh quốc phòng, bảo vệ độc lập, thống nhất và chế độ mới, nhanh chóng đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc; tích cực góp phần vào phong trào cách mạng và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam á và trên thế giới”(4).

Quán triệt đường lối lãnh đạo của Đảng NDCM Lào về xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, Quân đội nhân dân (QĐND) Lào được tăng cường xây dựng củng cố về mọi mặt, không chỉ là đội quân chiến đấu mà còn là đội quân công tác, sản xuất giỏi. Sự trưởng thành và lớn mạnh của QĐND Lào góp phần đập tan các cuộc bạo loạn, gây rối của các lực lượng phản động, đánh trả các hành động vũ trang khiêu khích, lấn chiếm biên giới của kẻ thù, giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Lào. Đặc biệt, trong quá trình xây dựng và phát triển, QĐND Lào luôn nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của QĐND Việt Nam về mọi mặt, đã ngăn chặn kịp thời các cuộc bạo loạn ở vùng núi Phu Bia, thuộc tỉnh Xiêng Khoảng (1977 - 1978); đập tan các cuộc tấn công lấn chiếm của quân đội Thái Lan vào 3 bản: bản Mày, bản Cang, bản Xá, thuộc huyện Pạc Lai (tháng 5-1984) tỉnh Xay-nhạ Bu-ly; tỉnh Bò Tèn (cuối 1987, đầu 1988)... Với những thành tích đạt được, QĐND Lào được Đảng, Nhà nước Lào tặng thưởng Huân chương Vàng Quốc gia - phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước Lào.

Song song với việc xây dựng lực lượng quân đội, củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, Đảng, Nhà nước Lào đặc biệt quan tâm tới xây dựng lực lượng an ninh nhân dân trong tình hình mới. Quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 51 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng NDCM Lào (năm 1981), công tác xây dựng cơ sở chính trị trong quần chúng nhân dân, xây dựng mạng lưới an ninh cơ sở được triển khai đều khắp. Lực lượng vũ trang an ninh nhân dân được sự giúp đỡ của quần chúng, phối hợp với chính quyền đoàn thể các cấp đã lần lượt phát hiện, truy quét nhiều cơ sở phản động ngầm, kịp thời phát hiện và đập tan các âm mưu gây bạo loạn của các thế lực thù địch, bảo đảm an ninh cho các hội nghị quốc gia, quốc tế tổ chức ở Lào...

3 - Về quan hệ đối ngoại

Một trong những yếu tố góp phần tạo nên sự lớn mạnh của nước CHDCND Lào là do đã làm tốt công tác đối ngoại. Trong tình hình mới, mặc dù hoàn cảnh bên trong và bên ngoài có nhiều thay đổi, Đảng, Nhà nước Lào vẫn xác định chính sách đối ngoại là: “... Tiếp tục duy trì quan hệ ngoại giao và phát triển quan hệ thương mại bình thường với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội, trên cơ sở năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình; tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của chính phủ và nhân dân các nước có thiện ý muốn giúp đỡ Chính phủ và nhân dân Lào trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân Lào”(5). Thực hiện chính sách đối ngoại này, Lào đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhiều nước trên thế giới, tranh thủ được vốn, kỹ thuật vào phát triển đất nước, từ đó tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội. Năm 1986, Lào tiến hành công cuộc đổi mới, theo đó, công tác đối ngoại của Lào cũng gặt hái được nhiều thành tựu. Không chỉ tận dụng những lợi thế do quan hệ đối ngoại mang lại vào việc phát triển đất nước, trong hoạt động thực tiễn, Lào cũng đã góp phần tích cực vào các công việc của quốc tế và khu vực, đã tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế, tiêu biểu như: Hội nghị Bộ trưởng khu vực sông Mê Công - sông Hằng về hợp tác du lịch (tháng 11-2000), Hội nghị bàn tròn về tài trợ cho nước Lào lần thứ bảy (tháng 11-2000), Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN - Liên minh châu Âu (tháng 12-2000)... Ngoài ra, Lào còn tham gia tích cực vào các tổ chức hợp tác khu vực như: ASEAN, Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), Tam giác phát triển Cam-pu-chia - Lào - Việt Nam (CLVDT),v.v.. Tháng 11-2004, Nhà nước Lào đã có đóng góp quan trọng vào thành công của Hội nghị cấp cao ASEAN-10 tổ chức tại thủ đô Viêng-chăn với việc thông qua Chương trình hành động Viêng-chăn (VAP) và Hiệp định khung ASEAN về 11 lĩnh vực ưu tiên cho hội nhập nhằm kiến tạo Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) như một khu vực tự do thương mại vào năm 2020. Hiện nay, Lào thiết lập quan hệ ngoại giao với 130 nước, đặt đại sứ quán ở 25 nước, 5 tổng lãnh sự quán, hai cơ quan đại diện ở Niu Oóc, Giơ-ne-vơ và có quan hệ với gần 100 chính đảng ở các nước; là thành viên của nhiều tổ chức khu vực và quốc tế (Liên hợp quốc, ASEAN, ASEM, ACMEC...).

Những bài học kinh nghiệm

Từ thực tiễn 35 năm xây dựng và phát triển nước CHDCND Lào, có thể rút ra một số bài học sau:

Thứ nhất, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng NDCM Lào là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Lào.

Lịch sử đã minh chứng, kể từ khi ra đời(6) đến nay, Đảng NDCM Lào không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân Lào. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng NDCM Lào luôn xuất phát từ thực tiễn cách mạng Lào, đất nước Lào, do đó nhanh chóng đi vào cuộc sống, được nhân dân đồng tình, ủng hộ và thực hiện có hiệu quả. Đặc biệt, ở vào những giai đoạn quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước suốt 35 năm qua, Đảng NDCM Lào đã khẳng định được bản lĩnh và trí tuệ tuyệt vời của mình trước sự biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và khu vực, luôn kịp thời đề ra những quyết sách đúng đắn, sáng tạo, do vậy đã tranh thủ được thời cơ, vượt qua thách thức lãnh đạo đất nước Lào vững bước đi lên. Một nước Lào hòa bình, độc lập và phồn vinh như hôm nay là thành tựu to lớn mà nhân dân các bộ tộc Lào giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Thứ hai, phát huy mọi tiềm năng, lợi thế sẵn có trong xây dựng và phát triển đất nước.

Là một quốc gia với dân số ít, diện tích chủ yếu là đồi núi, trình độ dân trí chưa cao, nhưng Lào lại là nước giàu tài nguyên thiên nhiên, nhân dân cần cù lao động. Tận dụng lợi thế đó, trong 35 năm qua, Đảng, Nhà nước Lào đã tập trung vào phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp, tạo ra những sản phẩm hàng hóa có chất lượng phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu. Bên cạnh đó, với nguồn thủy điện và khoáng sản dồi dào, Lào hiện là nước có thế mạnh trong khu vực về điện năng và sản xuất các hàng hóa công nghiệp từ khoáng sản. Trong những thập niên tới, từ những lợi thế và tiềm năng hiện có, với những cách làm và bước đi thích hợp, đất nước Lào sẽ thu được nhiều thành quả hơn nữa trên bước đường đổi mới và hội nhập.

Thứ ba, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế để dựng xây, phát triển đất nước Lào.

Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Lào gặp muôn vàn khó khăn, đất nước bị tàn phá nặng nề, cơ sở kinh tế hầu như chưa có gì. Song nhờ phát huy tốt nguồn nội lực của quốc gia, từ sức mạnh vật chất đến sức mạnh tinh thần, văn hóa, khoa học - công nghệ... đất nước Lào đã từng bước phục hồi và phát triển. Bên cạnh đó, với đường lối đối ngoại độc lập, rộng mở, trên tinh thần hợp tác cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, Lào đã tranh thủ được tiềm lực khoa học công nghệ của thế giới, đặc biệt là sự ủng hộ, giúp đỡ về vốn đầu tư của các nước để phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, Lào vừa đạt được mục tiêu là xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa bảo vệ vững chắc nền độc lập của mình.

Có thể nói, trải qua 35 năm xây dựng và phát triển, nước CHDCND Lào đã giành được nhiều thắng lợi to lớn trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh. Thành công đó không chỉ đưa Lào ngày càng có vị trí cao trong khu vực và thế giới mà còn góp phần không nhỏ vào công cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Trong những ngày tháng lịch sử này, toàn Đảng, toàn quân và toàn thể nhân dân các bộ tộc Lào đang có những hành động thiết thực chào mừng Quốc khánh lần thứ 35 của dân tộc mình. Chia sẻ niềm vui ngày hội lớn của đất nước Lào, tự đáy lòng mình, một lần nữa, những người cộng sản và nhân dân Việt Nam bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của #ảng NDCM Lào và nhân dân Lào anh em dành cho sự nghiệp cách mạng của #ảng ta, nhân dân ta, nguyện làm hết sức mình vun đắp mối quan hệ hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững./.
 
-------------------------------------------

(1) Ban Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và thực tiễn Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào: Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr 204

(2) Ban Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và thực tiễn Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào: Sđd, tr 228

(3) Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Lào: Lịch sử Quân đội nhân dân Lào, Viêng Chăn, 1996, bản dịch tiếng Việt, tr 250, Lưu Viện Lịch sử quân sự Việt Nam

(4) Ban Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và thực tiễn Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào: Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, tr 197

(5) Trần Cao Thành: Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

20 năm xây dựng và phát triển, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội 1995, tr 140 - 141

(6) Đảng Nhân dân cách mạng Lào thành lập vào ngày 22-3-1955, khi đó có tên là Đảng Nhân dân Lào; đến năm 1972 đổi tên thành Đảng Nhân dân cách mạng Lào