Chiến tranh thông tin của Mỹ: từ Cô-xô-vô đến Nam Ô-xê-ti-a (phần 2)
Cuộc chiến tranh này là nguồn tư liệu quan trọng để các chuyên gia nghiên cứu và phân tích chiến tranh thông tin, chiến tranh tâm lý “dọn đường” cho chiến dịch quân sự. Cuộc “dọn đường” này có vai trò vô cùng quan trọng để tạo dư luận có lợi cho hành động quân sự tiếp theo đó, vì thế được chuẩn bị hết sức chặt chẽ, kỹ lưỡng, chi tiết, và, hiệu quả đạt được không thể nói là nhỏ.
Xây dựng kế hoạch tuyên truyền bài bản
Các định hướng cơ bản trong hoạt động chiến tranh thông tin - tâm lý phục vụ chiến dịch quân sự này được soạn thảo và hoàn tất ngay từ giai đoạn thông qua quyết định mở đầu cuộc can thiệp vào một quốc gia có chủ quyền. Mục đích chủ yếu của hoạt động thông tin này là tạo lập dư luận quốc tế ủng hộ Mỹ và NATO ở Ban-căng, vô hiệu hóa ảnh hưởng của Nga, Trung Quốc và các nước khác trong việc phản đối các hành động quân sự của Mỹ và NATO.
Xác định rõ lộ trình triển khai
Cường độ, quy mô tuyên truyền được bắt đầu và tăng dần kể từ khi chuẩn bị chiến dịch đến khi không kích, trong thời gian không kích và hậu không kích.
Chiến tranh tâm lý được thực hiện vào năm 1998 (trước thời điểm không kích khoảng 1 năm), mở đầu bằng chiến dịch tuyên truyền về chuyện người Xéc-bi có các hành động "thanh lọc sắc tộc dã man" đối với người An-ba-ni ở Cô-xô-vô. Các kênh truyền hình, báo chí và đài phát thanh trong cả năm 1998 đến đầu năm 1999 liên tục đưa tin về các "hành động thanh lọc sắc tộc dã man của người Xéc-bi" và "nỗi bất hạnh của dân chúng người An-ba-ni".
Khi mở đầu chiến dịch không kích, các biện pháp tuyên truyền chiến tranh tâm lý chống Nam Tư được tăng cường mạnh mẽ hơn. Lãnh đạo của nhiều nước NATO phát biểu giải thích và ủng hộ hành động quân sự chống Nam Tư, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới và được phát đi qua các kênh truyền hình và đài phát thanh.
Đến thời điểm bắt đầu chiến dịch không kích, báo chí Mỹ công bố hàng loạt bài báo về lịch sử đất nước này, trong đó người Xéc-bi bị coi là “kẻ xâm lược”, là người đi “đàn áp” các dân tộc láng giềng.
Khi bắt đầu các cuộc ném bom, các bản tin về “hành động dã man” của người Xec-bi ở Cô-xô-vô được phát đi với thời lượng và khối lượng thông tin nhiều hơn, mặc dù lúc đó, ở Nam Tư đã không còn phóng viên báo chí của Mỹ.
Sau khi mở màn cuộc chiến, các đài phát thanh phương Tây đột ngột đưa tin bằng tiếng Xéc-bi, An-ba-ni, Bun-ga-ri và Mác-kê-đô-nhia. Đài phát thanh "Tiếng nói Hoa Kỳ" và "Châu Âu tự do" tổ chức đưa tin suốt ngày đêm hướng về phía Nam Tư.
Kết quả mà cuộc chiến tranh tâm lý này mang lại là, dư luận Mỹ có cái nhìn tiêu cực về Nam Tư, dù cho, Tổng thống Mỹ khi đó cũng công nhận rằng, đa số người Mỹ lúc đó thậm chí không biết Cô-xô-vô ở đâu trên bản đồ thế giới, và họ cũng không quan tâm cái gì có thể và cần làm ở khu vực này. Còn dư luận phương Tây gần như đã sẵn sàng chấp nhận phương án sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề Cô-xô-vô. Các cuộc điều tra dư luận xã hội được tiến hành trước chiến tranh tại các nước NATO cho thấy, hành động tiến công đường không vào Nam Tư đã nhận được sự ủng hộ của khoảng 55-75% dân chúng các nước này.
Tổ chức chặt chẽ việc thông tin một chiều
Một công cụ quan trọng của chiến tranh thông tin chống Nam Tư là cơ quan báo chí của NATO. Sau khi mở màn chiến sự, đội ngũ phóng viên báo chí của khối NATO được đột ngột tăng lên gấp bội. "Văn phòng báo chí quân sự" gồm 40 chuyên gia được thành lập chuyên làm nhiệm vụ phối hợp với dư luận xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng. Nhiệm vụ cụ thể của tổ chức này là phân tích các bản tin của phương Tây, Nam Tư và các nước khác về tình hình Ban-căng, từ đó đề xuất các giải pháp cho Bộ chỉ huy và lãnh đạo của khối này trong việc xác định chiến lược chung đối với các phương tiện truyền thông trong quá trình diễn ra chiến dịch; chuẩn bị các bản tin để họp báo tại Bộ chỉ huy của NATO. Đội ngũ các nhà báo, phóng viên và các cơ quan chính thức của NATO được quản lý và chỉ huy chặt chẽ trong các hành động phản ứng trước tình hình.
Khi có thông tin bất lợi bị rò rỉ, thì thái độ phản ứng trước dư luận sẽ được thực hiện thống nhất theo các bước: trước hết, là chính thức phủ nhận và cho rằng những thông tin đó bị bóp méo, tiếp theo, là đổ lỗi cho chính phủ Nam Tư có hành động khiêu khích. Cách làm đó đã được áp dụng khi các mục tiêu dân sự ở Nam Tư bị tiến công, như đoàn tàu chở khách, đoàn người tị nạn và ngay cả tin về các máy bay của NATO bị bắn rơi. Các phương tiện thông tin đại chúng thường đưa thông tin làm cho dư luận hiểu rằng, dường như An-ba-ni thích thú với việc máy bay NATO ném bom làng mạc và thành phố của họ, không có ai trong số hàng trăm nghìn người tị nạn phản đối các cuộc ném bom.
Theo đánh giá của các chuyên gia độc lập, hoạt động báo chí của khối thường đưa tin một chiều, bóp méo sự thật và “minh oan” cho các đón tiến công “nhầm” của NATO vào dân thường bằng cách giải thích mập mờ: “không thể nào tránh được tổn thất trong quá trình chiến tranh”.
Huy động và phát huy thế mạnh các phương tiện truyền thông
Sau khi phân tích tài liệu của các phương tiện thông tin đại chúng ở phương Tây trong thời gian chuẩn bị chiến dịch can thiệp của Mỹ và NATO ở Cô-xô-vô, các chuyên gia quân sự rút ra kết luận, đài truyền hình, đài phát thanh, báo chí và INTERNET ở các nước này đã được sử dụng rộng rãi để tiến hành một chiến dịch thông tin rộng lớn trên quy mô chưa từng có, đưa hàng loạt sự kiện chưa được kiểm chứng, thậm chí là hoàn toàn bịa đặt, nhằm chống lại Nam Tư.
Theo nhận xét chung, thái độ của dư luận xã hội Mỹ đối với vấn đề Cô-xô-vô trong những ngày đầu chiến tranh là do các phương tiện thông tin đại chúng của Mỹ tạo dựng nên, mà trước hết là truyền hình. Ưu thế đặc biệt của phương tiện này là, nếu chỉ đưa những thông tin một chiều về cuộc chiến thì sẽ mang lại hiệu quả rất cao trong việc tạo ra quan niệm sai lệch trong dân chúng đối với sự thật khách quan.
Một phương tiện đặc biệt nữa cũng được khai thác là INTERNET - “INTERNET cũng trở thành chiến trường". Trên mạng, chiến tranh thông tin được tiến hành dưới hai dạng. Một mặt, các bên nỗ lực phá hoại hạ tầng thông tin của nhau bằng cách phá hoại các mạng máy tính. Mặt khác, cả hai bên xúc tiến phát huy lợi thế của INTERNET để đưa đến dư luận tin tức chiến sự.
Thí dụ, để đối phó với các trận ném bom và bắn phá của tên lửa NATO, các chuyên gia máy tính của Nam Tư đã tấn công vào các máy chủ của khối này, làm tắc nghẽn đường truyền trong vòng 3 ngày. Theo thông báo của đại diện báo chí chính thức của NATO, trong vòng 3 ngày, từ ngày 28-3-1999, trang web của NATO trên INTERNET bị ngừng hoạt động. Thông qua INTERNET, các chuyên gia máy tính Xec-bi đã đưa ra danh mục khá dài về các tội của nhóm khủng bố người An-ba-ni chống lại cảnh sát và dân thường người Xec-bi; thông báo về số tài khoản trợ giúp cho cái gọi là "Đội quân giải phóng Cô-xô-vô"; thông báo về vụ bắt cóc hai nhà báo của hãng thông tấn “Tanhuc” và bắn chết các con tin người Xec-bi. Nhiều phương tiện thông tin đại chúng của Nam Tư đã sử dụng INTERNET để truyền tải thông tin khi phần lớn các trạm phát sóng đã bị không quân của NATO phá hoại.
Các thông tin về tình hình chiến sự ở Ban-căng cũng xuất hiện trên nhiều trang web, kể cả các trang web của quân đội Mỹ. Thông tin trên đó được dùng để tuyên truyền quan điểm chính thức và hình thành dư luận xã hội thuận lợi cho Mỹ và NATO. Mỹ còn tăng cường ủng hộ những người sử dụng INTERNET trong các lực lượng chống đối ở Nam Tư. Thí dụ, một hãng của Mỹ tổ chức cho người An-ba-ni gốc Cô-xô-vô, người Xéc-bi và tất cả những ai có quan điểm chống Nam Tư khi đưa tin về Cô-xô-vô được miễn phí kỹ thuật và được giữ kín địa chỉ khi sử dụng INTERNET.
Theo đánh giá của các chuyên gia phương Tây, trong điều kiện tất cả các kênh thông tin khác bị phong tỏa, thì khả năng truyền thông tin qua mạng INTERNET đã biến INTERNET trở thành một vũ khí lợi hại nhất, có khả năng ảnh hưởng đến diễn biến của chiến sự ở Cô-xô-vô.
Với cách thức huy động tổng lực các kênh thông tin vào cuộc, áp dụng các thủ pháp nhào nặn thông tin, hình ảnh phù hợp với mục đích tuyên truyền, những thông tin đã bị bóp méo được chuyển đến dư luận một cách hết sức khéo léo, nên có vẻ rất khách quan, tự do, không chịu sự áp đặt, định hướng của ai, và vì thế, được tiếp nhận một cách rất tự nhiên, tự giác, từ đó hình thành dư luận có lợi, phù hợp với ý đồ của người đưa tin. Hiệu quả của nó là, tỷ lệ người Mỹ ủng hộ chiến dịch sử dụng quân bộ ở Ban-căng để lật đổ chính phủ của tổng thống Mi-lô-sê-vich và đưa ông ta ra xét xử như một tội phạm chiến tranh, và cho rằng Mỹ có "sứ mạng cao cả" là thiết lập hòa bình ở Cô-xô-vô, đã tăng lên khá cao trong thời gian diễn ra cuộc tấn công: từ 47% tăng lên 57%, sau đó tăng lên 65% và cuối cùng dừng lại ở con số 71%.
Những điều rút ra
Thứ nhất, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, trong hệ thống các kênh thông tin truyền thống đã được bổ sung thêm một kênh thông tin mới - hữu hiệu và rất có lợi thế. Đó là mạng thông tin toàn cầu: INTERNET. Việc đưa tin chiến sự trong chiến dịch thông tin của NATO lần đầu tiên đã vượt ra khỏi khuôn khổ các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua sử dụng INTERNET.
Thứ hai, hoạt động thông tin, tuyên truyền được thực hiện thông qua các kênh thông tin có vai trò hết sức quan trọng trong việc tác động vào tư tưởng, hình thành nhận thức, quan niệm của dư luận.
Thứ ba, hiệu quả của hoạt động thông tin, tuyên truyền phụ thuộc vào khả năng xây dựng chiến lược, xác định mục tiêu, lên kế hoạch, lập lộ trình, huy động các kênh thông tin vào cuộc, và nội dung thông tin được truyền tải./.
Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản chúc thọ Đại tướng Võ Nguyên Giáp  (25/08/2008)
Vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn - nhìn từ góc độ giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa  (25/08/2008)
Vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn - nhìn từ góc độ giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa  (25/08/2008)
Chung quanh vấn đề phương pháp sáng tác hiện nay  (25/08/2008)
Chống gian lận trong kinh doanh xăng dầu  (25/08/2008)
Những sự kiện quốc tế đáng chú ý trong tuần (từ 18-8 đến 24-8-2008)  (25/08/2008)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm