Để Bắc Kạn thoát nghèo từ lợi thế của mình
TCCS - Để thực hiện tốt quy hoạch phát triển rừng giai đoạn 2009 - 2015, định hướng đến năm 2020, theo đó, mục tiêu phấn đấu từ nay đến năm 2015 trồng mới 60.000 ha rừng (chủ yếu là rừng nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến), Bắc Kạn cần đồng bộ một hệ thống giải pháp khả thi, trực tiếp giải quyết việc làm, tăng thu nhập của người dân, góp phần xóa đói, giảm nghèo nhanh và bền vững.
Thế mạnh của một tỉnh kinh tế chưa mạnh
Tìm lối để quê hương thoát nghèo là bài toán khó, nhiều thế hệ lãnh đạo các cấp và nhân dân Bắc Kạn đều trăn trở tìm lời giải. Đến nay, Bắc Kạn vẫn là tỉnh miền núi khó khăn, nguồn thu ngân sách nhà nước trên địa bàn mới đáp ứng được gần 10% tổng chi ngân sách của tỉnh, thu nhập bình quân đầu người năm 2010 đạt 9,6 triệu đồng, cơ cấu kinh tế dịch chuyển chậm và mất cân đối, ngành nông - lâm nghiệp vẫn là chủ đạo trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Thực hiện chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo điều kiện cho kinh tế Bắc Kạn phát triển, Thủ tướng Chính phủ đã bổ sung vào quy hoạch phát triển các khu công nghiệp cả nước đến năm 2010, cho phép Bắc Kạn thành lập Khu Công nghiệp Thanh Bình với quy mô diện tích giai đoạn I là 73,5 ha.
Triển khai phát triển công nghiệp từ điều kiện cụ thể của một tỉnh nội địa, địa - kinh tế ít ưu thế, trong 10 năm đầu của thiên niên kỷ mới, Đảng bộ Bắc Kạn đã có nhiều chủ trương: Quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh thời kỳ 2001 - 2010; Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2007 - 2010, định hướng đến năm 2020; Quy hoạch phát triển điện lực giai đoạn 2006 - 2010, có tính đến năm 2015; Quy hoạch thủy điện vừa và nhỏ... Cùng với những chủ trương đó, nhiều chính sách, cơ chế thúc đẩy, khuyến khích phát triển công nghiệp được tỉnh ban hành. Do vậy, đến nay, năng lực sản xuất công nghiệp của Bắc Kạn được tăng cường, một số cơ sở công nghiệp địa phương được đầu tư đang đi vào hoạt động; một số đơn vị kinh tế gặp khó khăn được tháo gỡ, tái cấu trúc và bước đầu đi vào sản xuất. Năm năm gần đây, Bắc Kạn đã thu hút thêm 13 dự án với tổng vốn đăng ký 2.479 tỉ đồng, trong đó có một số dự án quy mô tương đối lớn đang triển khai như: Dự án xây dựng Nhà máy điện phân kẽm chì, công suất 25.000 tấn kẽm/năm của Công ty TNHH Ngọc Linh; Dự án xây dựng Khu Liên hợp gang thép, công suất 250.000 tấn quặng/năm; Nhà máy nghiền tuyển quặng công suất 600.000 tấn quặng/năm của Công ty TNHH khoáng sản và luyện kim Vạn Lợi...
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, đến nay, tỷ trọng công nghiệp mới đạt 19,38% trong cơ cấu kinh tế toàn tỉnh, chưa thể trở thành ngành chủ đạo dẫn dắt kinh tế địa phương theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nguyên nhân của tình trạng này là “do điều kiện kinh tế, xã hội của tỉnh còn nhiều khó khăn, xuất phát điểm thấp đòi hỏi phải tăng trưởng nhanh để sớm thoát khỏi thực trạng tỉnh nghèo nên đã xuất hiện tư tưởng nóng vội, chủ quan trong công tác xây dựng kế hoạch và chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo tỉnh. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội còn thấp kém cùng với chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế làm cho năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh không theo kịp với xu thế chung, chưa thu hút được doanh nghiệp thật sự có năng lực đến đầu tư. Công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu thời kỳ hội nhập. Năng lực dự báo kinh tế, hoạch định chính sách đối phó tình huống của tỉnh còn thấp, các giải pháp chủ yếu mang tính chất thụ động, chưa có những giải pháp tích cực trước những biến động bất lợi của nền kinh tế chung...”(1). Bài toán khó thoát nghèo vẫn còn đó, đòi hỏi lời giải đúng!
Nhận thức rõ điểm yếu về địa - kinh tế, và cũng thấy rõ “lợi thế lớn của tỉnh là tài nguyên rừng và khoáng sản để thoát nghèo”, Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn lần thứ X, nhiệm kỳ 2010 - 2015 đã xác định: “Khai thác tốt các tiềm năng, thế mạnh, phát huy mọi nguồn lực và tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế”, “... quyết tâm phấn đấu để đến năm 2015 đưa Bắc Kạn cơ bản thoát khỏi tình trạng kém phát triển”(2) với những mục tiêu, nhiệm vụ và hệ thống giải pháp cụ thể để phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, đối với lâm nghiệp, Bắc Kạn xác định, trong 5 năm (2010 - 2015) “trồng rừng mới bình quân 12.000 ha/năm (cả rừng phân tán, rừng sản xuất tập trung). Thực hiện có hiệu quả việc khoán khoanh nuôi, bảo vệ rừng, nâng độ che phủ rừng đạt 62% vào năm 2015, nghề rừng sẽ trở thành nghề sản xuất chính mang lại nguồn thu nhập ổn định của phần lớn người dân miền núi, lâm nghiệp Bắc Kạn sẽ trở thành nền sản xuất hàng hóa lớn, giữ vị thế ngành kinh tế chủ lực trong cơ cấu GDP của tỉnh.
Năm năm (2006 - 2010), sản xuất lâm nghiệp của tỉnh đã đạt bước phát triển khá, diện tích rừng trồng mới là 23.820 ha, đưa Bắc Kạn trở thành một trong 6 tỉnh có tỷ lệ che phủ rừng cao nhất cả nước, từ 53% năm 2005 lên 58% năm 2010. Điểm nổi bật là nhân dân toàn tỉnh đã ý thức được lợi ích từ trồng rừng, nhất là từ điều kiện của một tỉnh miền núi, nên từ năm 2007 đến nay, bình quân mỗi năm người dân đã tự đầu tư trồng mới trên 800 ha rừng. Tuy nhiên, việc phát triển lâm nghiệp ở Bắc Kạn những năm qua còn nhiều hạn chế như: người dân còn chờ đợi nhiều vào sự hỗ trợ của Nhà nước từ chương trình 5 triệu héc-ta rừng; kết cấu hạ tầng nông thôn còn kém, trong khi đó hầu hết địa bàn trồng rừng đều xa xôi, hẻo lánh; công tác giống cây lâm nghiệp còn yếu, chưa tạo ra được giống cây có chất lượng cao cho người dân; chưa thu hút được doanh nghiệp đủ mạnh để hỗ trợ, đầu tư vào trồng rừng và chế biến lâm sản, tạo động lực cho nghề rừng phát triển... Thực tế, Bắc Kạn có tổng diện tích rừng lâm nghiệp là 420.990,5 ha, trong đó đất có rừng là 263.503,9 ha, rừng tự nhiên 224.151,4 ha, rừng trồng là 39.352,5 ha, đất chưa có rừng là 157.484,6 ha.
Để thực hiện tốt quy hoạch phát triển rừng giai đoạn 2009 - 2015, định hướng đến năm 2020, theo đó, mục tiêu phấn đấu từ nay đến năm 2015 trồng mới 60.000 ha rừng (chủ yếu là rừng nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến), Bắc Kạn đã tính đến kế hoạch đầu tư xây dựng nhà máy chế biến gỗ, nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập của người dân, góp phần xóa đói, giảm nghèo nhanh và bền vững. Vấn đề đặt ra vẫn là việc phát huy các nguồn lực, đi lên từ chính thế mạnh của mình.
Nguồn lực nào để phát triển rừng hiệu quả?
Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn lần thứ X, nhiệm kỳ 2010 - 2015 đã xác định chủ đề: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn Đảng bộ, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết các dân tộc, phát huy mọi nguồn lực, quyết tâm phấn đấu để đến năm 2015 đưa tỉnh Bắc Kạn cơ bản thoát khỏi tình trạng kém phát triển”. Trong hệ thống các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh 5 năm tới, việc trồng mới rừng là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Nếu trồng 60.000 ha rừng thành công đến tuổi khai thác, ước tính giá trị bán cây theo giá hiện nay đạt khoảng 3.000 tỉ đồng, giải quyết việc làm cho hơn 10.000 lao động, góp phần cải thiện được nguồn nước, môi trường sinh thái và nâng độ che phủ rừng đến năm 2015 đạt 62%. Tuy nhiên, để trồng mới 60.000 ha rừng, cần một lượng vốn khá lớn. Theo tính toán của ngành chức năng, phải cần lượng vốn ước khoảng 1.440 tỉ đồng(3), bình quân 288 tỉ đồng/năm. Trong 3 năm đầu phải huy động được 78,7% lượng vốn đó, tương đương 227 tỉ đồng chi trả công lao động trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng mới.
Để nhiệm vụ trên khả thi trong những năm tới, từ hoàn cảnh một tỉnh nghèo, ngành lâm nghiệp Bắc Kạn đưa ra một hệ thống đồng bộ các giải pháp mang tính căn bản, tích cực hơn nhằm huy động mọi nguồn lực của cả Trung ương, địa phương, mọi thành phần kinh tế:
Tài chính là bài toán được quan tâm hàng đầu, sẽ được khai thác, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn có thể trong và ngoài tỉnh. Trước hết, đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước, bao gồm vốn hỗ trợ đầu tư trồng rừng sản xuất theo Quyết định số 147/2007/QĐ-TTg, ngày 10-9-2007, của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007 - 2015; vốn từ kinh phí sự nghiệp môi trường; lồng ghép, phối hợp và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ các chương trình nông thôn miền núi của Chính phủ như Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ để đầu tư cho phát triển rừng, xây dựng kết cấu hạ tầng như mở các tuyến đường giao thông nông thôn gắn với vùng trồng rừng tập trung, đường ranh cản lửa, phòng chống cháy, trạm quản lý bảo vệ... (những nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách này sẽ giảm dần theo từng giai đoạn). Hai là, vốn từ các doanh nghiệp đầu tư trồng rừng trên địa bàn tỉnh được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt và cấp giấy chứng nhận đầu tư. Ba là, vốn tín dụng đầu tư do các chủ rừng vay của Nhà nước để đầu tư trồng rừng kinh tế, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, sản xuất nông, lâm nghiệp. Bốn là, vốn liên doanh, liên kết được huy động từ các tổ chức kinh tế trong và ngoài tỉnh liên doanh, liên kết với các chủ rừng để trồng rừng, xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ khai thác vận chuyển lâm sản. Năm là, vốn tự có của các chủ rừng tự đầu tư trồng rừng. Sáu là, vốn tái đầu tư trồng rừng từ khai thác rừng trồng đã đến tuổi khai thác.
Để thu hút các nguồn vốn này ngành lâm nghiệp Bắc Kạn đang khuyến khích các hình thức liên doanh, liên kết tập trung vào trồng rừng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến, tạo môi trường thông thoáng cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư trồng rừng sản xuất. Các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình được vay vốn từ nguồn vốn tín dụng đầu tư và được hưởng các ưu đãi về thuế theo quy định của Luật Đầu tư trong nước. Ưu tiên cho các tập thể, hộ gia đình và cá nhân tự vay vốn để trồng rừng sản xuất. Cụ thể, thu hút vốn từ các nhà đầu tư vào các lĩnh vực theo thứ tự sau: 1) Liên doanh, liên kết với các hộ gia đình, cá nhân và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh được giao đất, giao rừng (thuộc quy hoạch rừng sản xuất) để phát triển rừng sản xuất kết hợp với tiêu thụ, chế biến lâm sản trên địa bàn tỉnh và cam kết chủ yếu sử dụng lao động của địa phương; 2) Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư trồng rừng sản xuất ở các xã đặc biệt khó khăn; 3) Xây dựng các nhà máy chế biến lâm sản trên địa bàn tỉnh với công nghệ hiện đại, giảm thiểu ô nhiễm môi trường; 4) Thuê đất lâm nghiệp do ủy ban nhân dân các xã quản lý để trồng rừng kinh tế và là hạt nhân trong phát triển lâm nghiệp tại địa phương.
Về đất đai và sử dụng rừng, ngành lâm nghiệp Bắc Kạn khuyến khích người dân thực hiện tích tụ đất, hình thành những vùng trồng rừng nguyên liệu tập trung theo phương thức các hộ gia đình và cá nhân cho thuê hoặc góp cổ phần bằng quyền sử dụng đất lâm nghiệp. Tạo điều kiện cho chủ rừng được sử dụng rừng theo quy định của pháp luật. Tăng cường công tác hướng dẫn việc cải tạo rừng theo thông tư số 99/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Quyết định số 2807/2009/QĐ-UBND, ngày 16-9-2009 của ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn, Quy chế quản lý 3 loại rừng theo Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Trong thời gian tới, ngành lâm nghiệp Bắc Kạn tiếp tục áp dụng chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất lâm nghiệp cho các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân sản xuất lâm nghiệp trong thời kỳ đầu, cho doanh nghiệp chế biến lâm sản mới xây dựng hoặc đổi mới công nghệ; đơn giản hóa các thủ tục khai thác, lưu thông thương mại lâm sản. Những chính sách thông thoáng này vừa phát huy tính tự chủ của người sử dụng đất, vừa là điều kiện quan trọng hỗ trợ, kích thích các nguồn lực trong dân, đồng thời nhân giá trị của các nguồn lực đó lên, tập trung vào phát triển kinh tế rừng theo hướng sản xuất hàng hóa.
Về khoa học công nghệ, ngành lâm nghiệp Bắc Kạn đang tập trung giải quyết vấn đề chọn giống, giữ giống gốc, xây dựng vườn giống, chuyển hóa rừng giống, nhập nội giống có năng suất cao, sinh khối lớn (bình quân từ 20 m3/ha/năm trở lên); tăng cường quản lý, kiểm tra, kiểm soát chất lượng về giống từ khâu sản xuất đến trồng rừng, tiếp thu và ứng dụng những thành tựu khoa học về chọn và tạo giống cây trồng đáp ứng nhu cầu giống chất lượng cao cho trồng rừng. Tăng cường phát triển mạng lưới khuyến lâm dịch vụ cả về số lượng, chất lượng đáp ứng được nhiệm vụ chuyển giao khoa học - kỹ thuật tạo giống cây rừng, trồng rừng... Thông qua các phương thức đào tạo, các kênh truyền thông hướng dẫn người dân áp dụng các thành tựu khoa học - công nghệ trong sản xuất nông, lâm nghiệp. Làm tốt công tác này vừa tăng cường hiệu quả kinh tế rừng, vừa góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp của người làm rừng.
Về lao động và nguồn nhân lực, tỉnh đang nhanh chóng tăng cường đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ thuật, ưu tiên đào tạo cán bộ tại chỗ, đặc biệt cán bộ là người dân tộc thiểu số tham gia thực hiện Chương trình Dự án phát triển lâm nghiệp. Phấn đấu mỗi xã có một cán bộ lâm nghiệp giỏi về chuyên môn và quản lý, am hiểu phong tục tập quán của đồng bào để phổ cập, chuyển giao kỹ thuật sản xuất nông, lâm nghiệp đến từng hộ gia đình. Sử dụng nguồn lao động tại chỗ và lao động thời vụ vào trồng rừng và bảo vệ rừng bằng những cam kết về nghĩa vụ và quyền lợi một cách hợp lý. Tăng cường mở các lớp bồi dưỡng kiến thức sản xuất nông, lâm kết hợp, kiến thức về trồng rừng thâm canh, sinh kế dựa vào rừng... để ổn định đời sống, ổn định nguồn lao động. Khuyến khích và tạo điều kiện thu hút thanh niên tham gia công tác trồng rừng (phấn đấu để thanh niên mỗi năm trồng được ít nhất 1.000ha rừng). Giải quyết tốt bài toán nguồn nhân lực tại chỗ là phương châm đúng, có tính căn bản để phát triển kinh tế rừng một cách chủ động, bền vững, chăm lo vấn đề dân sinh, góp phần ổn định xã hội.
Về thị trường tiêu thụ sản phẩm, vấn đề hết sức quan trọng thúc đẩy việc trồng rừng phát triển có kế hoạch và ổn định lâu dài, Bắc Kạn xác định ưu tiên nguồn gỗ nguyên liệu tại chỗ cho các nhà máy chế biến gỗ đã xây dựng như: Nhà máy sản xuất ván ghép thanh, ván MDF tại Khu công nghiệp Thanh Bình của Công ty Cổ phần SAHBAK (đã chính thức đi vào hoạt động từ đầu tháng 10-2010). Đây là một trong những địa chỉ bảo đảm việc tiêu thụ sản phẩm của rừng đã có và 60.000 ha rừng đang và sẽ trồng mới ở Bắc Kạn. Trong thời gian tới, chính quyền tỉnh, các cấp, các ngành liên quan sẽ tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có đủ năng lực đầu tư xây dựng nhà máy chế biến lâm sản tại Nà Phặc (huyện Ngân Sơn) để bao tiêu sản phẩm từ rừng trồng thuộc các huyện phía bắc của tỉnh. Đồng thời, tỉnh cũng từng bước hướng dẫn, tạo điều kiện và khuyến khích để các chủ rừng xây dựng chứng chỉ rừng theo tiêu chuẩn FSC, nhằm bảo đảm điều kiện thuận lợi để gỗ rừng trồng và các sản phẩm từ gỗ rừng trồng trên địa bàn Bắc Kạn tiêu thụ ra thị trường thế giới.
Về công tác chỉ đạo, khi đã xác định được chương trình phát triển rừng theo hướng rừng kinh tế mũi nhọn, nghề rừng sẽ trở thành nghề sản xuất chính mang lại nguồn thu nhập ổn định của phần lớn người dân của một tỉnh miền núi, Tỉnh ủy Bắc Kạn đang tập trung cho việc thông qua nghị quyết chuyên đề về phát triển lâm nghiệp nói chung và công tác trồng rừng nói riêng ngay từ đầu nhiệm kỳ, coi đây là chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X.
Trồng mới 60.000 ha rừng trên phạm vi toàn tỉnh trong 5 năm tới là một việc lớn, cần có sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự tham gia của các tổ chức chính trị xã hội, các doanh nghiệp, các hộ gia đình... Để công tác này được triển khai một cách có tổ chức, có kế hoạch với những bước đi vững chắc, ngành lâm nghiệp Bắc Kạn đã đề nghị tỉnh thành lập ban chỉ đạo trồng rừng của tỉnh, huyện, ban phát triển lâm nghiệp xã, thôn, bản.
(1) (2) Tỉnh ủy Bắc Kạn: Dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X, tr 4 - 5, tr 3
(3) Tiền vốn + chăm sóc 01 ha rừng tính đầy đủ theo định mức ban hành kèm theo Quyết định số 38/2005/QĐ-BNN ngày 06-7-2005 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Công bố Báo cáo Xu hướng việc làm Việt Nam 2010  (24/01/2011)
An-ba-ni: Quốc hội quyết định điều tra về vụ biểu tình bạo lực  (24/01/2011)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm