Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII, ngày 17-6, Quốc hội thảo luận tại hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).

Thu hồi đất cho phát triển kinh tế - xã hội

 

Trình bày Báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu cho biết, có nhiều ý kiến tán thành quy định Nhà nước thu hồi đất.

 

Một số ý kiến đề nghị sử dụng khái niệm “trưng mua” đất đai thay cho “thu hồi đất”, vì quyền sử dụng đất là một loại tài sản được pháp luật bảo hộ và bảo đảm phù hợp với quy định của Hiến pháp về trưng mua, trưng dụng. Việc thu hồi đất chỉ nên áp dụng đối với trường hợp vi phạm pháp luật đất đai.

 

Có ý kiến đề nghị, đối với tài sản hợp pháp của các tổ chức, cá nhân gắn liền với đất thì phải trưng mua.

 

Tuy nhiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) nêu quan điểm: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu thông qua việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất và quy định thời hạn sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất không phải do người sử dụng đất tạo ra, trao quyền sử dụng đất, thu hồi đất.

 

“Các tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hóa đặc biệt, nhưng không phải là quyền sở hữu; người sử dụng đất được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất... theo quy định của pháp luật. Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản (Điều 13) quy định, Nhà nước trưng mua nhà và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân khi đất nước trong tình trạng chiến tranh hoặc trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng theo quy định của pháp luật về quốc phòng và pháp luật về tình trạng khẩn cấp. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Do đó, không thể thực hiện “trưng mua” thay cho “thu hồi” đất” - Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu nhấn mạnh.

 

Liên quan ý kiến đề nghị không thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội, UBTVQH cho rằng, để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các cấp đã dự kiến quỹ đất sử dụng cho các mục đích, trong đó có quỹ đất dành cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội.

 

Cùng với đó, các dự án phát triển kinh tế - xã hội thuộc lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng phải do Nhà nước thu hồi đất để bảo đảm thực hiện, bao gồm các dự án, công trình quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư; khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, dự án, công trình quan trọng do Thủ tướng chấp thuận chủ trương đầu tư; dự án xây dựng khu đô thị mới, chỉnh trang đô thị, khu dân cư nông thôn, cụm công nghiệp, các dự án khác đã được HĐND cấp tỉnh thông qua; dự án thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản tại khu vực khai thác đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND cấp tỉnh cấp phép thăm dò, khai thác theo luật Khoáng sản.

 

Khi thu hồi đất để tạo quỹ đất sạch và thực hiện giao đất, cho thuê đất chủ yếu thông qua hình thức đấu giá, Nhà nước sẽ điều tiết được phần giá trị tăng thêm từ đất không phải do người sử dụng đất tạo ra, tạo nguồn thu để thực hiện bồi thường, hỗ trợ cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất, bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất và của nhà đầu tư.

 

Đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội có trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện nhưng không thuộc diện Nhà nước thu hồi đất thì cho phép chủ đầu tư được nhận chuyển nhượng, thuê, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của người sử dụng đất để thực hiện dự án. Việc quy định cụ thể các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội là thể chế hóa đúng tinh thần của Nghị quyết số 19-NQ/TW của Trung ương.

 

Về thời hạn sử dụng đất nông nghiệp, qua cân nhắc, UBTVQH đề nghị kéo dài thời hạn giao đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, làm muối cho hộ gia đình, cá nhân lên 50 năm.

 

Đền bù chậm sẽ bị xử phạt

 

Liên quan đến vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, có ý kiến đề nghị tách bạch quy định về bồi thường và quy định về hỗ trợ. Có ý kiến đề nghị việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan, công bằng, kịp thời và đúng pháp luật. Người sử dụng đất được bồi thường theo mục đích đang sử dụng hợp pháp. Người có đất khi Nhà nước thu hồi được hỗ trợ đào tạo nghề, tạo việc làm, tổ chức lại sản xuất, bảo đảm đời sống.

 

Về vấn đề này, UBTVQH tiếp thu các ý kiến trên và hoàn thiện các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại Mục 2 Chương VI theo hướng phân biệt rõ việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Theo đó, bồi thường là bù đắp tối đa những thiệt hại cho người có đất do việc thu hồi đất gây ra như: Thiếu đất sản xuất, nhà ở, sản xuất bị gián đoạn, lợi nhuận bị giảm sút, cuộc sống, sinh hoạt bị ảnh hưởng… Việc bồi thường có thể bằng đất, bằng tiền. Hỗ trợ không phải là để bù đắp phần bồi thường chưa thỏa đáng, mà xác định đây là việc Nhà nước tạo điều kiện cho người có đất thu hồi có cuộc sống tốt hơn. Tái định cư được thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm khi thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở thì phải bố trí chỗ ở cho người có đất khi Nhà nước thu hồi theo nguyên tắc, nếu tiền bồi thường không đủ mua suất tái định cư tối thiểu thì được Nhà nước hỗ trợ đủ để mua suất tái định cư tối thiểu.

 

Về thời điểm tính giá đất bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, có ý kiến đề nghị nên qui định cụ thể. UBTVQH cho rằng, nên quy định theo hướng người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất.

 

Ngoài ra, giá đất bồi thường không đơn thuần là “sát giá thị trường” mà cần tính thêm “lợi ích phát sinh” người bị thu hồi đất được hưởng hợp lý giữa người có đất, người có tiền đầu tư và Nhà nước. Tuy nhiên, về ý kiến này, UBTVQH cho rằng: Dự thảo Luật đã có các quy định cụ thể về giá đất bồi thường. Giá đất được xác định theo nguyên tắc theo mục đích sử dụng đất tại thời điểm định giá; theo thời hạn sử dụng đất; phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, đấu giá quyền sử dụng đất thành công hoặc phù hợp với thu nhập từ việc sử dụng đất đối với trường hợp xác định được thu nhập (Điều 110). Ngoài việc bồi thường về quyền sử dụng đất, Nhà nước còn bồi thường thiệt hại về chi phí đầu tư vào đất còn lại, thiệt hại về tài sản trên đất và thiệt hại do ngừng sản xuất, kinh doanh, thực hiện hỗ trợ chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm cho người có đất thu hồi. Nhà nước giải quyết hài hòa lợi ích của người có đất thu hồi, nhà đầu tư và Nhà nước thông qua chính sách tài chính về đất đai.

 

Tình trạng bồi thường chậm diễn ra khá phổ biến, gây bức xúc cho nhiều người có đất bị thu hồi. Chính vì vậy, có đại biểu Quốc hội đề nghị, cần có quy định xử lý các trường hợp bồi thường chậm do cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường gây ra. Nội dung này được UBTVQH tiếp thu vào Điều 93 theo hướng cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường phải chi trả kịp thời tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất khi Nhà nước thu hồi. Trường hợp chậm chi trả do cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường gây ra thì ngoài tiền bồi thường, các khoản hỗ trợ theo quy định, người có đất khi Nhà nước thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng với mức phạt chậm nộp thuế theo quy định của pháp luật về quản lý thuế. Trường hợp nếu do người có đất không nhận tiền bồi thường, hỗ trợ theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã phê duyệt thì số tiền này được gửi vào tài khoản tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước.

 

Thảo luận về Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) sáng 17-6, đại biểu Trần Ngọc Vinh (Hải Phòng) đánh giá, cơ quan soạn thảo Luật vẫn lúng túng trong việc xác định bảng giá đất cụ thể. Những chỉnh sửa quy định về bảng giá, giá đất cụ thể vẫn cho thấy "nghẽn".

 

Đại biểu Trần Ngọc Vinh đặc biệt lưu ý giá đất bồi thường cho dân phải bảo đảm hài hòa, không thể để xảy ra tình trạng người dân được Nhà nước đền bù một giá, nhưng doanh nghiệp sử dụng đất thu hồi thu lợi chênh đến cả trăm lần; đồng thời nhấn mạnh, việc thu hồi đất phải bảo đảm hài hòa lợi ích của người dân, bởi nếu lòng dân chưa thuận thì khiếu nại, khiếu kiện vẫn tiếp diễn.

 

Đại biểu Trần Ngọc Vinh đề nghị, phải có cơ quan định giá đất độc lập; tránh tình trạng những cơ quan thu hồi định giá kiêm nhiệm kiểu "vừa đá bóng, vừa thổi còi". Ngoài ra, phải nâng mức bồi thường cho người nông dân khi bị thu hồi đất nông nghiệp ...

 

Sau phiên thảo luận ngày 17-6, Ban soạn thảo Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) sẽ tiếp thu ý kiến đại biểu để hoàn thiện dự thảo Luật, trình Quốc hội biểu quyết, thông qua vào ngày 21-6 tới./.