Vinh danh tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ với việc bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể theo Công ước 2003
TCCSĐT - Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là hình thức nghi lễ dân gian biểu hiện mạnh mẽ ý thức về lịch sử, tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam, sự tôn kính của người dân với tổ tiên; duy trì và nâng cao tâm thức của người Việt về cội nguồn dân tộc, giá trị đạo đức, tinh thần, triết lý dân tộc để gắn kết gia đình, dòng họ, làng xóm, với quốc gia dân tộc. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương trở thành đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" của mỗi người dân Việt trong nước và ở nước ngoài.
Vinh danh tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ trong danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
Di sản văn hóa phi vật thể được thế giới coi là một động lực thúc đẩy sự phát triển và bảo đảm tính đa dạng văn hóa, nhận được sự công nhận của cộng đồng quốc tế, là một nhân tố quan trọng thể hiện sự đa dạng văn hóa của nhân loại trong quá trình toàn cầu hóa tăng nhanh. Hiểu được di sản văn hóa phi vật thể của nhiều cộng đồng khác nhau giúp cho quá trình đối thoại giữa các nền văn hóa và thúc đẩy sự tôn trọng văn hóa và lối sống của các cá nhân, cộng đồng. Sự quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể không chỉ ở các hình thức biểu hiện văn hóa mà còn ở kho tàng kiến thức và kỹ năng được truyền từ đời này qua đời khác, có giá trị và chức năng đối với chủ thể của di sản.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được xếp vào loại hình “Các tập quán xã hội, nghi thức và lễ hội” (theo Công ước 2003 của UNESCO). Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là hình thức nghi lễ dân gian không chỉ được thực hành ở đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, thành phố Việt Trì, mà còn có ở gần 200 đình/đền trên địa bàn hơn 100 làng/thôn thuộc tỉnh Phú Thọ. Hùng Vương còn được thờ tự tại nhiều nơi ở Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ, và trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài(1). Theo truyền thuyết, Hùng Vương là người con trưởng của Lạc Long Quân và Âu Cơ, có công lập nên quốc gia Văn Lang cổ đại. Ngày nay, giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức với quy mô lớn tại đền Hùng, với sự tham gia hành lễ của chính quyền Trung ương và địa phương cùng với cộng đồng cư dân các làng ở Phú Thọ từ ngày 4 đến ngày 10 - 3 âm lịch. Đại diện của một số tỉnh thành, các ban, ngành Trung ương và địa phương, và hàng triệu người dân trong cả nước tham gia dâng hương và dâng cúng lễ vật tại đền Hùng(2). Vào những ngày giỗ chính, dân các làng, xã ở Phú Thọ chế biến những sản phẩm nông nghiệp thành các đặc sản từ gạo như bánh chưng, bánh giày, chế biến từ lợn, gà, trâu, bò thành lễ vật dâng lên vua Hùng tại đền Hùng và những nơi thờ tự tại đình, điện trong các làng xã có thực hành thờ cúng. Theo phong tục vào dịp giỗ Tổ, người dân ở các làng quanh núi Nghĩa Lĩnh trong trang phục truyền thống trai thì rước kiệu, gái thì làm lễ vật đưa về đền chính dự hội thi. Người ta sẽ chọn ra chiếc kiệu đẹp nhất và lễ vật ngon nhất rồi cùng nổi chiêng, trống, thanh la, nạo bạt, đồ bát bửu nghi trượng thành kính rước lên đền Hùng để thờ cúng vị thánh Tổ, cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, vạn vật sinh sôi, mùa màng bội thu. Với các làng xung quanh núi Nghĩa Lĩnh, Hùng Vương còn được suy tôn là Ông Tổ nghề nông, có công dạy dân cày ruộng, cấy lúa, là thánh vương ban cho dân cây trồng, vật nuôi.
Tín ngưỡng Hùng Vương là loại hình văn hóa dân gian mang tính nguyên hợp, gồm nhiều thành tố kết hợp với nhau như lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, nghi lễ thờ cúng, lễ rước, phẩm vật dâng cúng, sự hành hương mang theo khát vọng của người dân, trò diễn xướng, các trò chơi dân gian diễn ra ở gần 200 điểm thờ tự HùngVương cùng các tướng lĩnh và dòng tộc(3). Cùng với tín ngưỡng này còn có hệ thống những giá trị tinh thần được bảo lưu thuộc loại ngôn từ truyền miệng như truyền thuyết, thần thoại, đồng dao,… Việc cúng lễ và các sinh hoạt văn hóa khác là những hoạt động diễn ra thường xuyên, hoặc theo định kỳ, theo mùa vụ gắn với chu trình làm nông nghiệp của cộng đồng, gắn liền với đời sống tinh thần và tâm linh của các nhóm cư dân thực hành thờ cúng Hùng Vương và trở thành tín ngưỡng của người dân Việt Nam trong ứng xử với tổ tiên, nguồn cội.
Theo Quyết định số 7.COM 11.36 của UNESCO (báo cáo của Ban thẩm định về công tác năm 2012 và đánh giá Hồ sơ trong danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại năm 2012)(4), Hồ sơ đề cử Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đáp ứng các tiêu chí đại diện, đó là:
- Thờ cúng Hùng Vương bao gồm nghi lễ, đồ thờ cúng, hành hương và diễn xướng dân gian ở hơn một trăm làng thuộc tỉnh Phú Thọ và những vùng miền khác ở Việt Nam. Đây là một thực hành thể hiện lòng tri ân tổ tiên nhằm nâng cao niềm tự hào và cố kết xã hội.
- Việc ghi danh thờ cúng Hùng Vương góp phần vào việc nhận diện các hình thức thờ cúng tổ tiên đang được thực hành ở nhiều nước khác và khuyến khích các cộng đồng nhận thức được sự tương đồng trong khi nâng cao sự tôn trọng đa dạng văn hóa.
- Nhiều biện pháp bảo tồn bao gồm nghiên cứu, giáo dục, phát huy, nâng cao nhận thức được đưa ra và được nhà nước cùng các địa phương hỗ trợ về tài chính, bảo đảm khả năng tổ chức thực hành. Các biện pháp bảo tồn này thể hiện sự tôn trọng tính thiêng liêng của nghi lễ và những tập tục, kiêng kị trong việc tiếp cận ở một số khía cạnh tự bảo lưu của nó.
Đại diện các làng, cộng đồng và huyện cũng như các thành viên của Ban khánh tiết đã tích cực tham gia trong suốt quá trình chuẩn bị hồ sơ đề cử và có sự đồng ý, sự tự nguyện, sự đồng thuận, hiểu biết khá đầy đủ của các thành viên liên quan;
- Từ năm 2010, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ được đưa vào danh mục kiểm kê của Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch với sự tư vấn của cộng đồng 13 huyện, thị ở Phú Thọ.
Việc vinh danh góp phần bảo đảm tầm nhìn và nhận thức về tầm quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể, qua đó phản ánh tính đa dạng của văn hóa trên thế giới; chứng minh được sự sáng tạo của nhân loại, là cơ hội để củng cố thái độ tôn trọng quá khứ, làm tăng thêm niềm tin về tương lai trong các cộng đồng ở Phú Thọ. Người dân nhận rõ thờ cúng Hùng Vương là di sản văn hóa của dân tộc cần được gìn giữ, trao truyền cho thế hệ sau; bảo tồn những biểu hiện về tri thức, tập tục, nghi lễ, trò diễn, kỹ năng liên quan. Đồng thời, thông qua đó làm cho cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam và cộng đồng quốc tế tăng cường khả năng đối thoại với thông điệp hướng về cội nguồn, biết ơn tổ tiên mà người Việt muốn giới thiệu với thế giới. Việc này cũng góp phần vào sự nhận diện các hình thức thờ cúng tổ tiên đang được thực hành ở nhiều nước khác trên thế giới (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) và khuyến khích các cộng đồng nhận thức được sự tương đồng để chia sẻ và cùng tồn tại bền vững trong đa dạng văn hóa.
Việc được vinh danh là niềm tự hào của người dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thách thức trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị của di sản. Tại lễ vinh danh, lãnh đạo tỉnh Phú Thọ đã cam kết với Ủy ban Liên chính phủ Công ước 2003 - UNESCO rằng Việt Nam sẽ làm hết sức mình thực hiện nghiêm túc Công ước 2003 để cùng với cộng đồng trao truyền, thực hành, giáo dục thế hệ trẻ bảo tồn và phát huy giá trị di sản này để nó mãi trường tồn cùng dân tộc, xứng đáng là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại(5).
Các biện pháp bảo tồn tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ theo Công ước 2003
Di sản phi vật thể liên tục thay đổi, có thể bị mai một, nhưng cũng có thể được bổ sung, làm giàu thêm bởi các thế hệ kế tiếp. Rất nhiều loại hình và hình thức biểu hiện của di sản văn hóa phi vật thể đang bị đe dọa và có nguy cơ bị mai một do ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa, hiện đại hóa và đồng hóa văn hóa. Vì vậy, cần có những biện pháp bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể khác với các biện pháp bảo tồn di tích lịch sử, di sản vật thể và di sản thiên nhiên. Di sản phi vật thể chỉ có thể tồn tại khi chúng còn phù hợp với nền văn hóa của cộng đồng, được thực hành thường xuyên và được trao truyền. Di sản phi vật thể tồn tại ở dạng tri thức, kỹ năng và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trong gia đình, xóm làng thường qua truyền miệng.
Công ước 2003 của UNESCO quy định rõ việc bảo tồn di sản phi vật thể và nhấn mạnh đến sự trao truyền tri thức, kỹ năng của di sản. Theo Công ước, bảo tồn có nghĩa là bảo đảm cho di sản văn hóa phi vật thể thành một phần cuộc sống của thế hệ hiện tại và sẽ truyền dạy cho các thế hệ tương lai. Các biện pháp bảo tồn không phải chỉ khôi phục cái gốc, mà có thể phục hồi những loại hình, yếu tố bị mai một. Điều quan trọng, bảo tồn di sản phi vật thể là hướng tới các biện pháp bảo đảm sự sống, tính liên tục, bằng cách truyền dạy cho thế hệ sau, tôn trọng những sáng tạo mới phù hợp với bối cảnh của cuộc sống cộng đồng đương đại.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương với tư cách là một loại hình di sản phi vật thể, bao gồm những tập tục thờ cúng, nghi lễ cúng tế của ban tế lễ ở các đình, cách làm ra các lễ vật, cách dâng cúng lễ vật (từ việc chọn vật nuôi, quá trình nuôi, và kỹ thuật chế biến lễ vật vào dịp lễ hội). Cách thực hiện cúng tế của các ông chủ tế, của các thành viên trong đội tế, các hình thức diễn xướng, các trò chơi dân gian (tiêu biểu là trò bách nghệ khôi hài, trò quây lợn, trò trám, đánh phết, trò bắt chạch trong chum, trò tùng rí) là những tri thức dân gian được thực hiện hằng năm và được người này trao truyền cho người khác, thế hệ này kế tiếp thế hệ sau. Những thể loại văn hóa phi vật thể được lưu truyền bằng miệng khác như truyền thuyết về Hùng Vương lưu hành trong dân gian được văn bản hóa bằng chữ Hán, hoặc chữ quốc ngữ, hằng năm được thể hiện lại một phần trong văn tế và được kể lại cho nhau nghe trong gia đình, trong cộng đồng, được đưa vào tài liệu giảng dạy ở trường phổ thông.
Ở các làng xã thờ cúng Hùng Vương thường có một ban khánh tiết, do dân làng bầu ra, có hiểu biết, đạo đức tốt, với sự hướng dẫn, chỉ đạo của các cấp chính quyền và ngành văn hóa chủ trì và điều hành nghi lễ. Ban này chọn ra thủ từ hiểu biết hơn để trông coi, hướng dẫn thực hành ở nơi thờ tự, quanh năm hương khói cho Hùng Vương. Thủ từ ở đền Thượng, Trung, Hạ trong khu di tích đền Hùng được mặc định là người thuộc 3 làng “trưởng tạo lệ”: làng Cổ Tích, làng Trẹo, làng Vi. Ngày nay, các ông thủ từ được khu di tích lịch sử đền Hùng tổ chức thi chọn những ứng viên từ ba làng này có hiểu biết về cúng tế, về di tích đền Hùng, có khả năng thực hiện cúng và làm lễ.
Nghi thức cúng tế ở các đình, đền trong các làng được duy trì bởi đội tế, là các cụ 50 tuổi trở lên, gia đình hoà thuận, không có tang, không vi phạm pháp luật và lệ làng. Nhiệm vụ của họ là thực hiện nghi lễ cúng tế trong lễ hội, dâng hương, rượu, trà, đọc và hóa sớ. Trong tháng diễn ra nghi thức thờ cúng, thành viên Đội tế phải kiêng không sát sinh, kiêng sinh hoạt buồng the, không dự đám ma,… Đội tế phải tập luyện nghi thức hành lễ trước khi vào ngày hội chính.
Các biện pháp bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể không giới hạn nhưng có thể theo các nhóm sau: 1) Truyền dạy, đặc biệt qua giáo dục chính thức và không chính thức; 2) Nhận diện, tư liệu hóa, nghiên cứu; 3) Gìn giữ, bảo tồn; 4) Sự quảng bá, sự đề cao; 5) Sự phục hồi. Theo trình tự này, các giải pháp bảo tồn Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được đề xuất như sau:
Về truyền dạy: Ban khánh tiết và đội tế ở các đình, đền ở các làng thực hiện chuyển giao nghi thức cúng tế, viết và đọc chúc văn, cách thức làm các lễ vật dâng cúng, các diễn xướng dân gian liên quan đến tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương cho thế hệ trẻ.
Nâng cao chất lượng giờ dạy truyền thuyết Hùng Vương trong chương trình ngữ văn lớp 6, lớp 10. Xây dựng các chương trình giáo dục trên cơ sở tích hợp những kiến thức về di sản trong đó có tín ngưỡng Hùng Vương để đưa vào nhà trường trong các chương trình chính thức và ngoại khóa.
Về nhận diện: Cho đến nay, hầu hết các làng xã ở Phú Thọ có các di tích gắn với tín ngưỡng thờ Hùng Vương không có các ấn phẩm ghi chép, sưu tầm các truyền thuyết, lễ hội, trò chơi dân gian phản ánh hoặc liên quan trực tiếp đến sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng này. Tại một số làng, có các bậc cao niên, đội ngũ trí thức về hưu tự ghi chép, dịch thần tích, câu đối từ di tích tín ngưỡng của địa phương mình, nhưng đa số vẫn chưa được in ấn. Tại một số di tích, hiện vẫn lưu giữ sách viết bằng chữ Hán, nhưng chưa được dịch ra tiếng quốc ngữ. Vì vậy, một trong những biện pháp nhận diện di sản Hùng Vương là các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian địa phương phối hợp với các nhà nghiên cứu ở Trung ương tổ chức nghiên cứu các nghi thức, diễn xướng dân gian, sưu tập, phân loại, dịch ra chữ quốc ngữ các văn bản chữ Hán liên quan để nâng cao nhận thức cộng đồng và phục vụ cho các mục đích quảng bá và giáo dục di sản.
Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam kết hợp với cán bộ văn hóa của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cùng với người dân ở các địa phương có thực hành di sản tiếp tục kiểm kê ở các địa phương trên địa bàn cả nước, và một số cộng đồng người Việt Nam thờ Hùng Vương ở nước ngoài. Các cộng đồng thực hành di sản văn hóa phi vật thể ở vị thế tốt hơn bất kỳ đối tượng nào khác trong việc nhận diện và bảo tồn nó. Họ cần phải được tham gia, nhận diện và kiểm kê di sản của họ. Công tác kiểm kê luôn luôn bảo đảm có sự tham gia của các cộng đồng, nhóm người và những cá nhân mà di sản của họ sẽ được nhận diện và xác định đặc điểm, giá trị.
Về giữ gìn, bảo tồn: Nâng cao vai trò chủ động của cộng đồng tham gia vào việc tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương ở đền Hùng và ở các đình, đền khác có thực hành tín ngưỡng Hùng Vương, quản lý không gian thờ tự, thực hành nghi lễ, tổ chức lễ hội, các trò diễn xướng, trò chơi dân gian, giới thiệu và quảng bá phục vụ du lịch.
Về quảng bá: Phát huy chức năng Trạm vệ tinh của Ngân hàng dữ liệu di sản văn hóa phi vật thể của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có ở khu di tích lịch sử đền Hùng, hỗ trợ cộng đồng truy cập dữ liệu về tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, xây dựng trang web “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” để nâng cao những tri thức về di sản.
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, truyền hình, in ấn tờ rơi phổ biến tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Sử dụng thích hợp các phương tiện truyền thông ở Trung ương và địa phương trong việc quảng bá tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Ngành Văn hóa Trung ương và địa phương xuất bản và cung cấp cho cộng đồng những sản phẩm văn hóa về tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương dưới mọi hình thức: đĩa CD, VCD, DVD, sách, tờ gấp, ảnh,...
Về phục hồi: Theo thống kê của Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại hơn 100 làng sinh hoạt tín ngưỡng gắn với việc thờ phụng Hùng Vương ở Phú Thọ, có khoảng 50% số di tích được phục dựng (từ sau 1990), 10% di tích được tu bổ, 20% di tích đã xuống cấp, có nguy cơ trở thành phế tích và 20% di tích đã hoàn toàn trở thành phế tích hoặc biến dạng. Nhiều nơi đi liền với di tích được phục dựng, xây lại mới, tập tục thờ cúng, lễ hội, diễn xướng dân gian cũng được dân làng phục hồi. Trong công tác bảo tồn tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ, một vấn đề quan trọng là Nhà nước và chính quyền các cấp ở Phú Thọ không chỉ đầu tư kinh phí, hỗ trợ trùng tu, tu bổ Khu di tích lịch sử đền Hùng và cần quan tâm hơn nữa tới di tích, lễ hội, tập tục thờ cúng, và hệ thống các tài liệu ở các làng quê có thực hành thờ cúng Hùng Vương.
Sức sống của di sản phụ thuộc vào sự chủ động, tích cực của cộng đồng người dân ở các làng xã, huyện thị ở tỉnh Phú Thọ tham gia vào quá trình thực hành và lưu truyền. Chính họ là những người nắm giữ các tri thức truyền thống, kỹ năng và tập quán truyền lại cho các thế hệ sau và lưu truyền sang các cộng đồng khác. Từ thời nhà Lê (1428 - 1788) tiếp tục đến, các vương triều phong kiến và Chính phủ Việt Nam hiện nay đóng vai trò hỗ trợ tích cực cho cộng đồng tổ chức lễ Giỗ Tổ Hùng Vương.
Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể cũng là một nguồn phát triển kinh tế quan trọng, có thể gắn với phát triển du lịch, hoặc không nhất thiết phải có các hoạt động gắn liền với thu nhập. Vấn đề cốt yếu ở đây là khía cạnh kinh tế của việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể chính là phải tập trung phát huy các chức năng, ý nghĩa xã hội của di sản văn hóa phi vật thể trong cộng đồng và thúc đẩy lồng ghép di sản văn hóa phi vật thể vào các kế hoạch chính sách phát triển kinh tế của địa phương và quốc gia, huy động được các nguồn lực xã hội vào bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể vào đời sống đương đại./.
____________________
(1) Xem Karen Fjelstad và Nguyễn Thanh Liêm. “Bảo tồn di sản, giáo dục con cháu: Thờ cúng vua Hùng ở thung lũng Silicon, California, Mỹ.” Bài tham luận Hội thảo “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong xã hội đương đại (Nghiên cứu trường hợp tín ngưỡng thờ Hùng Vương ở Việt Nam)”, Việt Trì, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, 2011.
(2) Năm 2013, có 8 tỉnh thành trên cả nước sẽ tiến hành dâng lễ vật về đất Tổ gồm: Lạng Sơn, Hà Nam, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Đắk Lắk, Bình Định, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu.
(3) Bùi Quang Thanh: Tổng quan báo cáo kiểm kê Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ. Tài liệu đánh máy, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, 2011.
(4) UNESCO, Báo cáo của Ban thẩm định về công tác năm 2012 và đánh giá Hồ sơ trong Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại năm 2012.
(5) Phát biểu của chủ tịch tỉnh Phú Thọ tại Kỳ họp thứ 7 Ủy ban Liên chính phủ Công Ước 2003 – UNESCO, in trong sách Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, nhiều tác giả, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2013.
Tỷ lệ nữ trong Quốc hội Việt Nam cao thứ 2 trong các nước ASEAN  (17/04/2013)
Thủ tướng yêu cầu sớm làm sổ đỏ nhà đất, chung cư  (17/04/2013)
Đồng bằng sông Cửu Long sẽ đổi mới phương thức tiêu thụ nông sản  (17/04/2013)
Đẩy nhanh giải phóng mặt bằng các Dự án giao thông trọng điểm tại Hà Nội  (17/04/2013)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm