Phòng, chống tham nhũng và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

Nguyễn Đình Phách Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường trực, Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng
16:46, ngày 11-04-2013
TCCS - Tham nhũng là một trong các nguyên nhân, biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một khi nạn tham nhũng còn nghiêm trọng, kéo dài thì nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” càng gia tăng. Vì vậy, phòng, chống tham nhũng được thực hiện hiệu quả, đồng nghĩa với công tác phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ đạt được mục tiêu đề ra.

Tham nhũng và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

Tham nhũng là hành vi vi phạm pháp luật, kỷ cương, phép nước, vi phạm kỷ luật đảng, là hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 định nghĩa: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”. Như vậy, xét về bản chất, hành vi tham nhũng là hành vi vi phạm pháp luật của người có chức, quyền (đại đa số những người này là đảng viên Đảng Cộng sản). Đảng viên, cán bộ có chức, quyền là những người trước hết phải làm gương cho cả xã hội về việc tuân thủ, thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và chí công, vô tư trong công tác thì lại tham nhũng, tư lợi, vi phạm pháp luật và đi ngược lại các cương lĩnh, đường lối của Đảng về xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa. Quá trình đổi mới đất nước, do Đảng ta lãnh đạo, mang lại những thành tựu to lớn về mọi mặt của đời sống xã hội, tuy nhiên, với việc xây dựng, vận hành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa làm phát sinh những mặt tiêu cực, thách thức mà trước hết là nạn tham nhũng ngày càng nghiêm trọng, phức tạp. Song hành với quá trình đổi mới, phát triển của đất nước, một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, lợi dụng chức quyền, vụ lợi cá nhân, xói mòn đạo đức cách mạng.

Tham nhũng dẫn đến suy thoái đạo đức, tư tưởng, lập trường chính trị.

Sự suy thoái thể hiện rõ ở tư tưởng đề cao lợi ích cá nhân, vụ lợi, ích kỷ, suy thoái nhân cách của cán bộ, đảng viên; không ít cán bộ, đảng viên bị chủ nghĩa thực dụng, “chủ nghĩa đồng tiền” chi phối. Ngày càng xuất hiện nhiều tình trạng, khi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra để phát triển đất nước bị lợi dụng, biến tướng để vụ lợi cá nhân; việc thực hành công vụ không vì lợi ích chung của xã hội mà chủ yếu để đạt được quyền lợi cho công chức, cán bộ. Tham nhũng dẫn đến hệ quả nghiêm trọng là lãng phí tràn lan: lãng phí tài nguyên thiên nhiên (đất đai, rừng, khoáng sản,...), lãng phí tài nguyên nhân lực do tham nhũng trong công tác cán bộ, lãng phí tài chính, nguồn vốn, lãng phí cơ hội phát triển của đất nước,... Do giàu có bất chính, nhanh chóng từ tham nhũng (dân ta gọi đó là “tiền chùa”) nảy sinh tệ nạn lãng phí, lối sống xa hoa, phô trương, hưởng lạc, sa đọa, biến chất,… trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước.

Từ đó, có quan điểm xa lạ với lý tưởng cộng sản, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân; kỷ cương, kỷ luật không nghiêm.

Tham nhũng và “lợi ích nhóm”.

Tham nhũng thường gắn liền với “lợi ích nhóm”, “bè phái, cục bộ” là các hiện tượng tiêu cực đã được đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phê phán. Vì “lợi ích nhóm”, một bộ phận cán bộ, đảng viên cùng cấu kết để bảo vệ quyền lợi, trục lợi cho riêng mình, cùng tham nhũng và bao che cho nhau trong hành vi tham nhũng. Lợi ích nhóm làm cho hành vi tham nhũng sâu sắc và tinh vi hơn nhiều (ví dụ, can thiệp vào việc xây dựng chính sách, đường lối nhằm định hướng, tạo điều kiện cho cơ hội tham nhũng sau này). Lợi ích nhóm gia tăng đồng nghĩa với việc gia tăng mất đoàn kết, đố kỵ, ghen ghét, bè phái trong Đảng. Đây là một trong những hình thức “tự diễn biến” cực kỳ nguy hiểm. Theo quy luật xã hội chung, một khi tồn tại “lợi ích nhóm” thì không có gì bảo đảm cho việc duy trì tương quan mong manh giữa “các nhóm”, “các phái”; luôn tồn tại nguy cơ bùng nổ tranh giành “lợi ích nhóm”. Hơn thế nữa, nguy cơ này rất dễ bị các thế lực thù địch, chống đối Đảng, Nhà nước lợi dụng gây chia rẽ trong Đảng, phá hoại Đảng. Trong Di chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn Đảng ta phải giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn “con ngươi của mắt mình”. Điều dạy của Hồ Chủ tịch hơn 40 năm trước, ngày nay vẫn còn nguyên giá trị và đang là vấn đề được Đảng ta đặt lên hàng đầu cần giải quyết, mà nguyên nhân từ nạn tham nhũng.

Tham nhũng có yếu tố nước ngoài.

Quá trình hội nhập mọi mặt đời sống xã hội với thế giới, trong đó có hội nhập kinh tế, quốc tế hóa thương mại ở Việt Nam là điều kiện để phát sinh các hành vi tham nhũng có yếu tố nước ngoài, các hành vi này có xu hướng ngày càng gia tăng và tinh vi, phức tạp. Cán bộ, đảng viên vì vụ lợi, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài được nhận các điều kiện kinh doanh dễ dãi, được sử dụng các nguồn tài nguyên của đất nước với giá thấp hơn nhiều so với giá trị thực; có doanh nghiệp nước ngoài được sử dụng làm bình phong để hợp thức hóa, “rửa” tiền và tài sản có được qua con đường tham nhũng; một lượng lớn tiền và tài sản tham nhũng được chuyển ra nước ngoài. Từ đó, làm giảm khả năng cạnh tranh, phát triển của các doanh nghiệp trong nước, nảy sinh và gia tăng sự lệ thuộc của một bộ phận cán bộ, đảng viên tham nhũng vào các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Ngoài ra, lượng tiền và tài sản từ tham nhũng được chuyển ra nước ngoài trong bất kỳ thời điểm nào cũng có khả năng bị chính quyền nước ngoài phong tỏa, tịch thu, đồng nghĩa với việc tài sản quốc gia bị mất đi (thực tế điều này đã xảy ra với một vài nước Trung Đông trong những năm gần đây).

Tham nhũng trầm trọng, kéo dài sẽ dẫn đến gia tăng khoảng cách giàu - nghèo, gia tăng bức xúc trong xã hội.

Sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên thể hiện ở bức tranh trái chiều trong cuộc sống xã hội: trong khi nhiều người nghèo phải chật vật với cuộc sống thường ngày, thường xuyên phải gánh chịu hậu quả của thiên tai, dịch bệnh thì lại có bộ phận nhỏ quá giàu, sống phô trương, trưởng giả, lai-căng, sa đọa như nói ở trên. Tình trạng phân hóa giàu - nghèo này ngày càng lớn, cùng với sự phân tầng giai cấp trong xã hội, những bức xúc trong quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với người dân, doanh nghiệp và những mâu thuẫn trong nội bộ do lợi ích nhóm được tích tụ từ lâu chưa được giải quyết,... gây nên những bất bình giữa nhân dân với một bộ phận cán bộ, đảng viên và chính quyền; làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và với chế độ.

Như vậy, tình trạng tham nhũng phổ biến, nghiêm trọng, kéo dài, một mặt, thúc đẩy nguy cơ “tự diễn biến” trong Đảng; mặt khác, làm gia tăng bức xúc xã hội, giảm sút niềm tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước, là mối đe dọa đối với sự tồn vong của Đảng, của chế độ.

Nhiệm vụ trọng tâm trong công tác phòng, chống tham nhũng thời gian tới

Trong năm 2011 và đầu năm 2012, thực hiện nhiệm vụ do Bộ Chính trị giao, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã hoàn thành Đề án sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa X, về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tại Hội Nghị Trung ương 5 khóa XI, Trung ương Đảng đã nghe báo cáo và đồng thuận với nhận định: Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa X, đã có những chuyển biến tích cực cả về nhận thức và hành động trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã đạt được những kết quả bước đầu. Trên một số lĩnh vực, tham nhũng, lãng phí đã từng bước được kiềm chế.

Tuy nhiên, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong những năm qua vẫn chưa đạt yêu cầu và mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí… Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, gây bức xúc trong xã hội, là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.

Thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 5 khóa XI, cần tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, gắn với quán triệt, thực hiện có hiệu quả chủ trương, giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí được xác định trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, trong đó tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau đây:

- Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí;

- Tiếp tục hoàn thiện thể chế về quản lý kinh tế - xã hội để phòng, chống tham nhũng, lãng phí;

- Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế, chính sách về công tác tổ chức, cán bộ phục vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí;

- Tiếp tục hoàn thiện thể chế và tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí;

- Tăng cường vai trò giám sát của cơ quan dân cử và nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí;

- Đổi mới, nâng cao năng lực của cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo và cơ quan thường trực, tham mưu về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Phòng, chống tham nhũng, lãng phí là công việc khó khăn, phức tạp, là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với việc thực hiện đồng bộ những chủ trương, giải pháp trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, chúng ta cần đồng thời tiến hành công tác phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”./.