TCCS - Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là thông qua giáo dục, đào tạo, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người lao động, là chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước và hội nhập, là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.

Theo kết quả điều tra lao động và việc làm Việt Nam năm 2009, lực lượng lao động ở khu vực nông thôn là 35,36 triệu lao động (chiếm 71,7% lực lượng lao động cả nước), tỷ lệ lao động nông thôn đã qua đào tạo (gồm đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật) còn thấp (11,7%), phần đông làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp (60,5%), chủ yếu là tự làm và lao động gia đình (69,2%). Đặc biệt, trong những năm qua, do quá trình đô thị hóa nhanh, việc thu hồi diện tích đất nông nghiệp lớn cộng với CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn làm cho một bộ phận lao động nông thôn thiếu tư liệu sản xuất, thiếu việc làm, thậm chí rơi vào tình trạng thất nghiệp.
 
Theo số liệu tổng hợp từ báo cáo của 19/63 Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, trong giai đoạn 2006 - 2010, tổng diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi là 86.267,95 ha, số lao động bị mất việc làm là 292.457 người. Mặt khác, đến năm 2009, tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn 11,3% và ước tính năm 2010 khoảng 9,45%, trong đó, khoảng 90% là ở khu vực nông thôn. Bởi vậy, thực hiện tốt chính sách hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho các đối tượng này không chỉ khai thác và phát huy nguồn nhân lực dồi dào ở nông thôn, phát triển nông thôn theo hướng hiện đại mà còn giải quyết việc làm, tăng thu nhập, giảm nghèo bền vững.

Thực hiện chủ trương của Đảng về hỗ trợ học nghề và tạo việc làm, trong những năm qua, hệ thống pháp luật trong lĩnh vực dạy nghề và việc làm ngày càng hoàn thiện; nhiều chính sách hỗ trợ người nghèo, lao động nông thôn, lao động thuộc diện chính sách xã hội, lao động là dân tộc thiểu số học nghề và tạo việc làm được thực hiện như: dạy nghề miễn phí cho người nghèo; hỗ trợ học phí học nghề, ngoại ngữ, kiến thức trước khi đi làm việc ở nước ngoài; hỗ trợ vốn sản xuất, kinh doanh; hỗ trợ doanh nghiệp nhận lao động thuộc vùng thu hồi đất nông nghiệp vào làm việc; hỗ trợ kinh phí học nghề cho đối tượng là người nghèo, đối tượng chính sách,...

Chính phủ đã triển khai nhiều chương trình, dự án lớn trong phạm vi cả nước như: Chương trình Mục tiêu quốc gia về Việc làm, Chương trình Mục tiêu quốc gia Giảm nghèo, Chương trình Mục tiêu quốc gia về Giáo dục - Đào tạo, Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 (Chương trình 135).

Đặc biệt, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 63 huyện có tỷ lệ hộ nghèo nhất nước (trên 50%), trong đó có chính sách và dự án hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập; phê duyệt và triển khai Đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững; Đề án dạy nghề cho lao động nông thôn,... Các chính sách, chương trình, dự án trên tập trung chủ yếu vào đối tượng lao động nông thôn, lao động diện thu hồi đất cho phát triển các khu công nghiệp và đô thị, lao động thuộc hộ nghèo, đối tượng chính sách và đã đạt được những kết quả nhất định.

Ra đời từ năm 1992, Quỹ Quốc gia về việc làm đóng vai trò ngày càng quan trọng trong hỗ trợ tạo và tự tạo việc làm cho người lao động. Trên cơ sở bổ sung nguồn ngân sách nhà nước từ Chương trình Mục tiêu quốc gia về việc làm, đến nay Quỹ Quốc gia về việc làm đã tích lũy được trên 3.761 tỉ đồng và được phân bổ cho 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Ngoài ra, có 37 tỉnh, thành phố đã thành lập Quỹ việc làm địa phương với số vốn trên 880 tỉ đồng, kết hợp với nguồn vốn bổ sung hằng năm và vốn thu hồi đã đưa doanh số cho vay giai đoạn 2006 - 2010 lên khoảng 8.096 tỉ đồng, cho vay hơn 600 nghìn dự án, thời gian cho vay bình quân một dự án là 35 tháng, góp phần hỗ trợ tạo việc làm cho 250 - 300 nghìn lao động mỗi năm, trong đó, 90% các dự án vay vốn tập trung cho vay ở khu vực phi chính thức, chủ yếu ở khu vực nông thôn.
 
Quỹ Quốc gia về việc làm đã hỗ trợ tạo và tự tạo việc làm cho lao động nông thôn bằng nhiều mô hình hiệu quả như: hợp tác xã sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ; các vùng nuôi trồng thủy hải sản; mô hình kinh tế trang trại, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống; lồng ghép với chương trình tổ, nhóm giúp nhau làm kinh tế của Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân... Đối với lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, ngoài việc được ưu tiên vay vốn tạo việc làm từ Quỹ Quốc gia về việc làm, các địa phương đã thực hiện nhiều chính sách như: hỗ trợ kinh phí học nghề để chuyển đổi việc làm hoặc đi lao động ở nước ngoài; xây dựng các chợ, mở rộng trung tâm thương mại thu hút các hộ đến kinh doanh; quy định hỗ trợ các doanh nghiệp nhận lao động vào làm việc, v.v..

Song song với đẩy mạnh tạo việc làm trong nước, chúng ta cũng tích cực đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng. Từ năm 2006 đến nay, đưa khoảng 360 nghìn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng, nâng tổng số lao động đang làm việc ở nước ngoài lên gần 500 nghìn lao động, chủ yếu là lao động thanh niên nông thôn (chiếm từ 80 - 90%). Đến nay, đã có trên 80 nghìn lao động là đối tượng thuộc hộ nghèo, đối tượng chính sách xã hội được vay tổng số 1.694 tỉ đồng, với mức vay bình quân hơn 20 triệu đồng/người để chi trả các chi phí đi làm việc ở nước ngoài; trên 6.500 lao động thuộc các huyện nghèo ở 18 tỉnh đã đăng ký đi làm việc, trong đó có khoảng 6.000 lao động được tuyển chọn; trên 2.500 lao động đã xuất cảnh sang các thị trường như: Ly-bi, Ma-lai-xi-a, UAE, Hàn Quốc, Nhật Bản...

Đặc biệt, thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, ngày 27-11-2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 với mục tiêu đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông thôn mỗi năm, nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn; góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đến nay, hầu hết các địa phương đã ban hành Chỉ thị về đào tạo nghề cho lao động nông thôn và đưa công tác đào tạo nghề vào nghị quyết của các cấp ủy. Nhiều hoạt động trong khuôn khổ Đề án cũng được triển khai rộng khắp như: tuyên truyền, tư vấn học nghề và việc làm đối với lao động nông thôn thông qua các phương tiện thông tin đại chúng; điều tra khảo sát và dự báo nhu cầu học nghề cho lao động nông thôn (đến tháng 6/2010 có 44/63 địa phương đã tiến hành); thí điểm mô hình dạy nghề cho lao động nông thôn theo hướng sản xuất nông nghiệp hàng hóa (nuôi trồng thủy sản, vùng chuyên canh cây nông nghiệp, cây công nghiệp,...) và phi nông nghiệp (đặt hàng một số tập đoàn, tổng công ty, khu công nghiệp, cơ sở đào tạo dạy nghề cho lao động nông thôn sang làm công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn hoặc làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất,...); phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề và cán bộ quản lý dạy nghề; mở rộng, thành lập mới các cơ sở dạy nghề, đặc biệt là Trung tâm dạy nghề cấp huyện...

Tuy nhiên, những kết quả đạt được chỉ là bước đầu. Hoạt động dạy nghề và tạo việc làm cho các đối tượng chính sách, người nghèo, lao động nông thôn và vùng đô thị hóa vẫn còn một số hạn chế. Các chính sách về hỗ trợ học nghề và việc làm ở khu vực phi chính thức, khu vực nông thôn chưa được quy định cụ thể. Việc làm cho lao động nông thôn vẫn là một vấn đề bức xúc, tình trạng thiếu việc làm của lao động nông thôn khá phổ biến. Giải quyết việc làm cho các nhóm lao động yếu thế còn hạn chế, chưa có các chương trình, chính sách cụ thể, chi tiết; đào tạo nghề ngắn hạn (dưới 3 tháng) chiếm 80%. Việc triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho lao động nông thôn, người nghèo, đối tượng chính sách tại một số địa phương còn chậm; đội ngũ giáo viên dạy nghề còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng; các nguồn lực hỗ trợ học nghề và tạo việc làm mới chỉ đáp ứng 40 - 50% nhu cầu của người dân, đạt 70 - 75% kế hoạch...

Qua thực tiễn hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho lao động nông thôn, người nghèo và đối tượng chính sách ở Việt Nam trong giai đoạn qua có thể thấy rằng, việc thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng, nhưng phải căn cứ vào tình hình thực tiễn của từng địa phương để có những bước đi phù hợp, bảo đảm hiệu quả cao nhất. Nâng cao nhận thức, năng lực, trách nhiệm cho các cấp ủy, chính quyền và người dân có ý nghĩa then chốt, quyết định sự thành công; phải đưa người lao động vào vị trí trung tâm, khuyến khích sự năng động và chủ động trong học nghề và tạo việc làm cho bản thân và cho người khác, không thụ động, trông chờ vào Nhà nước. Để thực hiện tốt công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, người nghèo và đối tượng chính sách, cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, hoàn thiện đồng bộ, kịp thời hệ thống pháp luật về thị trường lao động. Nghiên cứu xây dựng Luật Việc làm, Luật Tiền lương tối thiểu; nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung và ban hành các chính sách, hướng dẫn triển khai thực hiện các đề án, chính sách về dạy nghề và việc làm cho lao động nông thôn, cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp; nghiên cứu xây dựng các chính sách về trợ cấp việc làm, bảo đảm an toàn việc làm; chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho các đối tượng yếu thế trong xã hội.

Hai là, xây dựng và thực hiện có hiệu quả Chương trình Mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề giai đoạn 2011 - 2015 với các dự án, hoạt động: đổi mới và phát triển dạy nghề, dạy nghề cho lao động nông thôn; cho vay tạo việc làm từ Quỹ Quốc gia về việc làm; đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài; hỗ trợ phát triển thị trường lao động; nâng cao năng lực cán bộ, giám sát đánh giá, thông tin truyền thông.

Ba là, triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án Dạy nghề cho lao động nông thôn theo hướng đồng bộ, bền vững và hiệu quả, gắn với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, gắn dạy nghề và tạo việc làm, có các chính sách thích hợp để thu hút lao động nông thôn vào làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất,....; xây dựng cộng đồng trách nhiệm giữa các bên có liên quan như Nhà nước - doanh nghiệp - cơ sở dạy nghề - người học trong tổ chức triển khai; rà soát quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề cho lao động nông thôn, thành lập Trung tâm dạy nghề ở những huyện chưa có trung tâm; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên dạy nghề và cán bộ quản lý cả về chất lượng và số lượng.

Bốn là, xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về thị trường lao động; dự báo cung - cầu lao động trong ngắn hạn và dài hạn theo quý, 6 tháng, hằng năm phục vụ cho việc hoạch định chính sách về dạy nghề và việc làm nói chung, thực hiện đào tạo theo nhu cầu của thị trường nói riêng; nâng cao năng lực các trung tâm giới thiệu việc làm, đa dạng hóa các hoạt động giao dịch việc làm để các đối tượng lao động ở vùng nông thôn vùng sâu, vùng xa có cơ hội tiếp cận thông tin thị trường lao động, từ đó tìm được việc làm phù hợp với bản thân.

Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về dạy nghề và tạo việc làm. Đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động thông tin tuyên truyền sâu rộng trong các cấp, các ngành và người dân về các chủ trương, chính sách, thông tin việc làm, thị trường lao động và đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài./.