TCCSĐT - Tiếp tục Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII, ngày 8-11-2012, các đại biểu Quốc hội làm việc tại hội trường, thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 và thảo luận về dự kiến Chương trình hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2013; các đại biểu thảo luận ở tổ về hai Dự án Luật: Luật Phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai; Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi).

Sáng 8-11, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 với tỷ lệ 91,77% tổng số đại biểu tán thành.

 

Theo đó, mục tiêu tổng quát của năm 2013 là: Ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn 2012, đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, tăng cường quốc phòng an ninh và ổn định xã hội, tạo nền tảng phát triển vững chắc hơn cho những năm về sau.

 

Về các chỉ tiêu chủ yếu, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đạt 5,5%; kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%;  tỷ lệ nhập siêu khoảng 8%; bội chi ngân sách Nhà nước không quá 4,8% GDP; tốc độ tăng giá tiêu dùng khoảng 8%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng 30% GDP.

 

Tỷ lệ hộ nghèo giảm 2%, riêng các huyện nghèo giảm 4%;  tạo việc làm cho 1,6 triệu lao động;  tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị dưới 4%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 49%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm xuống còn dưới 16%; số giường bệnh trên 1 vạn dân (không tính trạm y tế xã) đạt 22 giường.

 

Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường bị xử lý đạt 84%; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 75%; tỷ lệ che phủ rừng đạt 40,7%.

 

Nghị quyết đề ra các giải pháp như phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong việc huy động, sử dụng các nguồn lực cho phát triển kinh tế, đồng thời bảo đảm kiềm chế lạm phát, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô.

 

Chính phủ nâng cao chất lượng công tác dự báo, phân tích diễn biến thị trường trong nước và thế giới, có biện pháp điều hành phù hợp; bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa, dịch vụ, điều chỉnh giá một số mặt hàng Nhà nước quản lý theo lộ trình một cách linh hoạt với liều lượng hợp lý.

 

Thu hút và đẩy mạnh giải ngân các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiếp tục tháo gỡ khó khăn và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn vay, hạ lãi suất tín dụng phù hợp với mức giảm lạm phát; có chính sách tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản.

 

Mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng không thiết yếu, hàng xa xỉ; tăng cường công tác quản lý thị trường chống hàng nhập lậu, hàng giả, có chính sách phát triển thị trường trong nước, xây dựng các hàng rào phi thuế quan phù hợp với cam kết quốc tế để hạn chế nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam.

 

Tiếp tục triển khai có hiệu quả việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục để tập trung thực hiện đột phá chất lượng nguồn nhân lực; chủ động phòng ngừa, phát hiện đấu tranh có hiệu quả với mọi hành vi tham nhũng. Tập trung giải quyết hiệu quả các vụ khiếu nại, tố cáo, nhất là các vụ khiếu nại, tố cáo đông người liên quan đến đất đai; trong năm 2013 giải quyết cơ bản các vụ khiếu nại, tố cáo tồn đọng, phức tạp, kéo dài gây bức xúc trong nhân dân và báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6.

 

Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm giảm bớt thủ tục hành chính, đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ban hành và hoàn thiện các chính sách, giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.

 

* Cũng trong ngày 8-11-2012, các đại biểu đã nghe Tờ trình và thảo luận ở hội trường về dự kiến Chương trình hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2013.

 

Đánh giá tình hình thực hiện chương trình hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2012, Tờ trình cho rằng, mặc dù tình hình kinh tế - xã hội của đất nước còn nhiều khó khăn, khối lượng công việc của Quốc hội ngày một tăng nhưng với sự nỗ lực phấn đấu, tinh thần trách nhiệm cao của các cơ quan Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội, hoạt động giám sát tiếp tục được đổi mới, có tiến bộ, hoàn thành chương trình đề ra, bảo đảm tiến độ, chất lượng.

 

Việc gắn kết giữa xem xét báo cáo, giám sát chuyên đề, giải quyết kiến nghị của cử tri và hoạt động chất vấn đã mang lại hiệu ứng tích cực, được đại biểu Quốc hội và cử tri đánh giá cao. Các chuyên đề được lựa chọn đều là những vấn đề bức xúc, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với tình hình thực tế; sau hoạt động chất vấn, giám sát chuyên đề, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành nghị quyết làm cơ sở để theo dõi, giám sát việc thực hiện. Hoạt động giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri, khiếu nại tố cáo của công dân được quan tâm hơn. Bên cạnh đó, cách thức giám sát luôn được quan tâm cải tiến…

 

Nhiều đại biểu đánh giá, những nội dung giám sát như: việc thực hiện chính sách, pháp luật về người có công với cách mạng; việc thực hiện chính sách, pháp luật về đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số… đã và đang tạo hiệu ứng tích cực, được người dân ủng hộ, đánh giá cao.

 

Tuy nhiên, các ý kiến cũng nhất trí với đánh giá của Ủy ban thường vụ Quốc hội rằng hoạt động giám sát của Quốc hội vẫn còn những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của tình hình hiện nay. Giám sát việc ban hành văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội chưa được quan tâm đúng mức. Giám sát giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân đạt kết quả còn hạn chế.

 

Việc theo dõi, đánh giá thực hiện các nghị quyết, kiến nghị sau giám sát chưa được chú trọng đúng mức, thiếu những chế tài cụ thể nên còn là khâu yếu.

 

Vì số lượng các vấn đề cần giám sát rất lớn, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã đưa ra 4 tiêu chí trong việc lựa chọn nội dung đưa vào chương trình giám sát 2013. Theo đó, những chuyên đề được lựa chọn giám sát và những vấn đề bức xúc nổi lên, được đại biểu Quốc hội, cử tri và nhân dân quan tâm; xét ở góc độ vĩ mô cần được đưa ra diễn đàn Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét; gắn với công tác xây dựng pháp luật và nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2013. Các vấn đề không trùng các chuyên đề Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát trong thời gian gần đây. Bảo đảm cân đối giữa các lĩnh vực và phạm vi giám sát phù hợp với khả năng thực hiện của các cơ quan được Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến giao chủ trì giám sát.

 

Với tinh thần đó, trên cơ sở nghiên cứu ý kiến đề nghị của các cơ quan, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định 2 trong 3 nội dung sau đây để tiến hành giám sát tại 2 kỳ họp trong năm 2013 là: Việc thi hành Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ cho đầu tư xây dựng cơ bản, giai đoạn 2006 - 2012 (chuyên đề 1); Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế, giai đoạn 2009 - 2012 (chuyên đề 2); Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, bảo vệ, phát triển rừng, giai đoạn 2006 - 2012 (chuyên đề 3).

 

Thảo luận tại Hội trường, nhiều ý kiến cơ bản nhất trí với Tờ trình, đồng thời đánh giá các nội dung được lựa chọn để giám sát chuyên đề là phù hợp, được cử tri quan tâm, bao hàm được cả lĩnh vực kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, ý kiến các đại biểu vẫn còn khác nhau trong việc lựa chọn 2 trong 3 chuyên đề nêu trên.

 

Nhất trí chọn chuyên đề 1 và 2, song đại biểu Đỗ Mạnh Hùng (đoàn Thái Nguyên) và đại biểu Nguyễn Thị Hồng Hà (Hà Nội) cho rằng, cần bổ sung nội dung về bảo hiểm xã hội vào chuyên đề 2. Đây là vấn đề quan trọng trong bảo đảm an sinh xã hội song thời gian qua hiệu quả đạt được chưa cao.

 

Tuy nhiên, theo đại biểu Danh Út (đoàn Kiên Giang), việc lựa chọn chuyên đề giám sát là rất quan trọng và nên chọn chuyên đề hẹp, 1 nội dung để bảo đảm độ chuyên sâu, thuận lợi trong giám sát và hiệu quả mới cao. Do đó, với chuyên đề 2, đại biểu cho rằng không nên thêm nội dung về bảo hiểm xã hội.

 

Một số đại biểu lại cho rằng nên lựa chọn giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, bảo vệ, phát triển rừng vì tình trạng tàn phá rừng diễn ra nghiêm trọng, công tác bảo vệ còn yếu và đặc biệt là cần tính tới ảnh hưởng lâu dài do biến đổi khí hậu gây ra.

 

Đại biểu Trương Văn Vở bày tỏ bức xúc trước tình trạng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng bị xâm hại và đề nghị vấn đề bảo vệ rừng phải được quan tâm số 1.

 

Nhất trí với ý kiến trên, đại biểu Võ Thị Hồng Thoại (đoàn Bạc Liêu) phân tích, công tác quản lý bảo vệ rừng đang tồn tại quá nhiều vấn đề gây bức xúc, ảnh hưởng đến phát triển bền vững nên cần quan tâm.

 

Ở góc độ khác, đại biểu Lê Nam (đoàn Thanh Hóa) bức xúc: “Cần xem lại hơn 10 năm qua những kiến nghị, kết luận, những vấn đề được Quốc hội đặt ra về bảo vệ và phát triển rừng được thực hiện như thế nào? Lâm tặc đang tấn công vào những vùng rừng cuối cùng giàu tài nguyên của Việt Nam. Thay vì tiếp tục giám sát nội dung nay sẽ tốn tiền, tốn công, tốn sức, chúng ta nên đánh giá lại để từ đó có chủ trương giải pháp phù hợp”.

 

* Trong khi tiến hành thảo luận về Dự án Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi), phần lớn các đại biểu khẳng định về sự cần thiết sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ.

 

Ðiều 5 của dự thảo Luật đề cập nội dung chính sách của Nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ được nhiều đại biểu Quốc hội nhất trí, đồng thời đề nghị quy định rõ hơn chính sách huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho khoa học và công nghệ, trách nhiệm của Nhà nước và vai trò của doanh nghiệp trong đầu tư cho khoa học và công nghệ và ứng dụng đổi mới công nghệ. Có ý kiến đề nghị Dự thảo cần quy định rõ hơn các lĩnh vực khoa học và công nghệ cần ưu tiên đầu tư, như: đầu tư cho khoa học và công nghệ trong lĩnh vực quản lý xã hội, bảo vệ Tổ quốc, an ninh - quốc phòng; quy định cụ thể các chính sách phát huy nhân lực, nhân tài cho khoa học và công nghệ; chính sách khuyến khích và hỗ trợ người dân sáng tạo và ứng dụng công nghệ.

 

 

Một trong những vướng mắc lớn, điểm tắc nghẽn chủ yếu trong hoạt động khoa học và công nghệ hiện nay là cơ chế tài chính. Việc đổi mới cơ bản cơ chế tài chính trong hoạt động khoa học và công nghệ cho phù hợp với đặc thù của hoạt động khoa học và công nghệ là rất cần thiết. Tuy nhiên, vấn đề này liên quan các văn bản pháp luật về tài chính, trong đó có Luật Ngân sách Nhà nước. Do đó, các đại biểu Trần Văn Minh (Quảng Ninh), Hà Minh Huệ (Bình Thuận) đề nghị cần có quy định có tính đột phá, đổi mới cơ chế tài chính cho khoa học và công nghệ...

 

Doanh nghiệp khoa học và công nghệ là một loại hình tổ chức đặc biệt được quy định tại Ðiều 20, 21 của Dự thảo Luật nhằm khuyến khích việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, tại Ðiều 10, Dự thảo Luật không coi doanh nghiệp khoa học và công nghệ là một loại hình tổ chức khoa học và công nghệ. Về vấn đề này, có ý kiến nhất trí với việc thành lập doanh nghiệp khoa học và công nghệ nhưng cho rằng, Dự thảo Luật chưa có định nghĩa về doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, những điều kiện công nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ quy định tại Ðiều 20 Dự thảo Luật chưa làm rõ được sự khác biệt của doanh nghiệp khoa học và công nghệ với những loại hình doanh nghiệp khác, dễ dẫn đến việc thành lập doanh nghiệp khoa học và công nghệ để được hưởng ưu đãi và việc quản lý có thể gặp khó khăn. Có đại biểu đề nghị không nên thành lập doanh nghiệp khoa học và công nghệ vì bản chất các doanh nghiệp là phải tìm cách nắm bắt, đổi mới công nghệ để tạo ra được giá trị sản phẩm cao, tăng tính cạnh tranh trên thị trường.

 

Một số đại biểu cho rằng, Dự thảo Luật cần có các quy định cụ thể hơn để buộc doanh nghiệp dành tỷ lệ thích hợp lợi nhuận trước thuế cho hoạt động khoa học và công nghệ hoặc hình thành quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp; đồng thời quy định cơ chế phù hợp tạo sự chủ động cho doanh nghiệp trong việc sử dụng nguồn kinh phí này...

 

* Thảo luận về Dự án Luật Phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai, một số đại biểu cho rằng, Dự thảo Luật còn một số điều khoản quy định chung chung, quy định trách nhiệm của các cơ quan chưa được rõ, chưa nhất quán, khó khả thi. Ðồng thời cần đề cập, nhấn mạnh hơn các nội dung, hành động nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu. Ðại biểu Lê Thị Công (Bà Rịa - Vũng Tàu) nêu ý kiến, Luật này cần được xây dựng, triển khai kết hợp Luật Ðất đai, Luật Bảo vệ môi trường nhằm tăng cường sức mạnh, hiệu quả phòng, chống thiên tai và bảo vệ tài sản của đất nước, của nhân dân, trong đó chú trọng bảo vệ rừng phòng hộ, giữ gìn quỹ đất nông nghiệp...

 

Về quỹ phòng, chống thiên tai, Dự thảo Luật quy định hai loại quỹ, gồm: Quỹ đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước (khoản 2, Ðiều 8) và Quỹ Phòng, chống thiên tai (khoản 3, Ðiều 8 và Ðiều 9). Có ý kiến cho rằng, Dự thảo chưa làm rõ đối với Quỹ đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thì việc quản lý, sử dụng như thế nào; đối với Quỹ phòng, chống thiên tai phải là quỹ bắt buộc và sẽ bao gồm các loại thu gì, quỹ được thành lập ở cấp nào, việc quản lý, đối tượng miễn trừ... Ban soạn thảo nghiên cứu quy định rõ về hai loại hình quỹ này và đưa ra những quy định sát thực tiễn, khả thi.

 

Ðối với Ðiều 30 quy định về trách nhiệm trong ứng phó thiên tai, một số đại biểu đề nghị cần làm rõ trách nhiệm của “cơ quan cấp trên”, “cơ quan chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai” khi nhận được thông tin báo cáo, trách nhiệm của lực lượng vũ trang trong ứng phó thiên tai; cơ chế phối hợp trong chỉ đạo, thực hiện phòng, chống thiên tai trên địa bàn; trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền công bố tình trạng khẩn cấp về thiên tai. Ðại biểu Cao Sĩ Kiêm (Thái Bình) và một số đại biểu khác đề nghị Dự thảo Luật cần có quy định về hợp tác quốc tế trong phòng, chống thiên tai.

 

Một số đại biểu nêu ý kiến, Dự thảo Luật quy định bốn đối tượng có thẩm quyền huy động nguồn lực phục vụ cho hoạt động ứng phó thiên tai, nhưng lại không quy định rõ sự khác biệt giữa các cấp độ trong huy động nguồn lực. Vì vậy, Ban soạn thảo cần làm rõ căn cứ để phân cấp thẩm quyền giữa các cơ quan nói trên để việc sử dụng nguồn lực đúng mục đích, hiệu quả.

 

Về hoạt động khắc phục hậu quả thiên tai (Ðiều 33), Dự thảo Luật đã quy định tám hoạt động nhưng không rõ cơ quan nào có thẩm quyền để triển khai các hoạt động này. Vì vậy, có ý kiến đề nghị  cần phân định rõ trách nhiệm của các nhóm chủ thể trong khắc phục hậu quả thiên tai...

Theo thông báo, ngày 9-11-2012, Quốc hội họp phiên toàn thể tại hội trường thảo luận về dự án Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi)./.