Xây dựng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam trong tình hình hiện nay

Hoàng Xuân Lương TS, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc
10:34, ngày 26-03-2012
TCCS- Đảng và Nhà nước ta luôn thực hiện nhất quán chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Trong tình hình hiện nay, cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp, các ngành cần quán triệt sâu sắc vai trò, vị trí, tiềm năng to lớn của địa bàn dân tộc thiểu số, miền núi và chính sách dân tộc nhất quán của Đảng và Nhà nước, để từ đó chủ động lãnh đạo, tổ chức thực hiện hiệu quả công tác xây dựng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Việt Nam là một quốc gia thống nhất, có 54 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó có 53 dân tộc thiểu số với dân số 12.250.436 người, chiếm khoảng 14,3% dân số cả nước. Đồng bào dân tộc thiểu số cư trú chủ yếu ở 52 tỉnh, thành phố. Vùng dân tộc thiểu số, miền núi chiếm 3/4 diện tích tự nhiên, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái.

Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc, kế thừa truyền thống đoàn kết, yêu nước của dân tộc, ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định công tác dân tộc, chính sách dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn thực hiện nhất quán chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Cụ thể, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách quan trọng nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi. Có thể chia các chính sách đó thành 3 nhóm:

- Nhóm chính sách đầu tư kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế vùng được thực hiện trên cơ sở phân định trình độ phát triển của các khu vực miền núi, vùng cao, như: Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn (Chương trình 135); Chương trình xây dựng trung tâm cụm xã; Chương trình định canh, định cư; các chính sách đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên, vùng miền núi phía Bắc và vùng Tây Nam Bộ.

- Nhóm chính sách phát triển kinh tế - xã hội theo ngành, lĩnh vực, chủ yếu là các chính sách hỗ trợ kinh tế hộ gia đình phát triển sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất, chuyển giao khoa học, công nghệ, tín dụng ưu đãi đối với người nghèo, khuyến nông, khuyến lâm, trồng và bảo vệ rừng, định canh, định cư; chính sách giáo dục ưu đãi đối với cán bộ quản lý và nhà giáo công tác ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số, xây dựng, kiên cố hóa trường học, cử tuyển và dự bị đại học; chính sách y tế chăm sóc sức khỏe cho đồng bào, cấp thẻ bảo hiểm y tế, phát triển hệ thống y tế thôn, bản, y tế dự phòng; đề án bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số, tập trung đào tạo đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số, ưu đãi cán bộ về công tác tại vùng dân tộc thiểu số, miền núi.

- Nhóm chính sách đặc thù đối với một số dân tộc thiểu số rất ít người. Ngoài những chính sách đầu tư, hỗ trợ theo vùng, Nhà nước còn có các chính sách hỗ trợ phát triển một số dân tộc có số dân dưới 1.000 người, như: Si La, Pu Péo, Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Mảng, La Hủ, Cống, Cờ Lao; các dân tộc có số dân dưới 10.000 người cũng được hỗ trợ phát triển. Đây là nhóm chính sách đặc thù cho các dân tộc có điều kiện đặc biệt khó khăn để các dân tộc này thoát khỏi đói nghèo và lạc hậu.

Nhờ các chính sách đúng đắn đó, vùng dân tộc thiểu số, miền núi đã từng bước phát triển khá toàn diện.

Về kinh tế - xã hội: Thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình giảm nghèo, kinh tế địa bàn dân tộc thiểu số, miền núi đã có tốc độ tăng trưởng cao hơn mức bình quân của cả nước. Mạng lưới giao thông đến trung tâm xã được cứng hóa hoặc nhựa hóa tới 86,4%; hơn 90% số xã được sử dụng điện lưới quốc gia, tỷ lệ hộ nghèo của các xã đặc biệt khó khăn giảm từ 47% năm 2006 xuống 28,8% năm 2010 (bình quân giảm từ 3% đến 4%/năm); thu nhập bình quân đầu người tăng từ 2,17 triệu đồng/người năm 2005 lên 4,2 triệu đồng/người năm 2010. Những kết quả trong công tác xóa đói, giảm nghèo địa bàn dân tộc thiểu số, miền núi là đáng khích lệ, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.

Về văn hóa - xã hội: Tính đến nay, trên 90% địa bàn đã được phủ sóng phát thanh, 70% người dân được nghe đài phát thanh, trên 70% địa bàn được phủ sóng truyền hình; 100% số xã có trường tiểu học, trạm y tế; các hoạt động lễ hội văn hóa, thể thao được duy trì, tạo nên không khí vui tươi, phấn khởi, đoàn kết giữa các dân tộc; những giá trị văn hóa của các tộc người được tôn trọng, gìn giữ và phát huy. Các xã đều có trường tiểu học được xây dựng kiên cố, 90% số trẻ em trong độ tuổi được đến trường; tỷ lệ người trong độ tuổi lao động qua đào tạo đạt gần 20%, trong đó 4,81% có trình độ đại học; tỷ lệ người lớn mù chữ riêng ở địa bàn các xã đặc biệt khó khăn giảm từ trên 10% năm 2006 xuống dưới 5% năm 2010; cơ cấu lao động thay đổi theo hướng tăng lao động ở các ngành phi nông nghiệp. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được trú trọng, mạng lưới y tế phát triển đến tận các xã; đồng bào dân tộc thiểu số được cấp thẻ bảo hiểm y tế không thu tiền, được tiếp cận các dịch vụ y tế cơ bản; đến nay đã kiểm soát, khống chế được các dịch bệnh thông thường.

Hệ thống chính trị ở cơ sở đã từng bước được củng cố, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số phát triển cả về số lượng và chất lượng. Trong tổng số 500 đại biểu Quốc hội khóa XIII có 78 đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số thuộc 29 dân tộc khác nhau, đến từ 26 tỉnh, thành phố, chiếm tỷ lệ 15,6%. Đại biểu là người dân tộc thiểu số tham gia hội đồng nhân dân cấp tỉnh nhiệm kỳ 2011- 2016 là 688 người, chiếm 18%; cấp huyện là 4.237 người, chiếm 20,1%; cấp xã là 62.383 người, chiếm 22,46%. Nhiều cán bộ lãnh đạo của địa phương là người dân tộc thiểu số.

Quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường; khối đại đoàn kết các dân tộc ngày càng được củng cố, đồng bào các dân tộc gắn bó, tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số toàn quốc lần thứ nhất từ Trung ương đến địa phương là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn dân, khẳng định chính sách dân tộc nhất quán của Đảng và Nhà nước, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, nâng cao niềm tự hào, tin tưởng của đồng bào các dân tộc thiểu số vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, vào tương lai tươi sáng của đất nước. Chính phủ đã ban hành nghị định về công tác dân tộc, khẳng định bằng văn bản có tính pháp lý về vị trí, tiềm năng, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, nội dung công tác dân tộc, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đối với công tác dân tộc.

Tuy đã đạt được những thành tựu rất quan trọng nói trên nhưng tình hình vùng dân tộc thiểu số miền núi cũng đang đặt ra nhiều vấn đề rất bức xúc, đòi hỏi phải giải quyết nhằm không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc. Đó là những vấn đề:

Khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn: Khoảng cách chênh lệch về thu nhập và đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi so với vùng đồng bằng ngày càng gia tăng; đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số còn rất khó khăn. Vùng dân tộc thiểu số, miền núi vẫn là vùng nghèo nhất của cả nước, với tỷ lệ nghèo theo chuẩn mới là 26,4% (ở những khu vực đặc biệt khó khăn lên đến 57%), trong khi tỷ lệ hộ nghèo của cả nước là 14,20%; tình trạng thiếu nước sinh hoạt, đất sản xuất còn nhiều (hiện còn 223.176 hộ thiếu đất sản xuất). Theo số liệu điều tra mức sống, khoảng cách thu nhập giữa 20% hộ nghèo nhất (chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số) và 20% hộ giàu nhất đã tăng lên nhanh chóng. Năm 2004, chênh lệch thu nhập giữa nhóm 20% số hộ có thu nhập cao nhất và nhóm 20% số hộ có thu nhập thấp nhất ở các tỉnh miền núi phía Bắc là 5,22 lần; ở các tỉnh Tây Nguyên là 10,9 lần. Đến năm 2010, tỷ lệ này đã tăng lên 6,8 lần ở các tỉnh miền núi phía Bắc và 12,9 lần ở các tỉnh Tây Nguyên.

Chất lượng nguồn nhân lực thấp: Lao động chưa qua đào tạo chiếm tới 86,21%; có những dân tộc, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo rất cao, như dân tộc Mông là 98,7%, Khmer: 97,7%, Thái: 94,6%. Lao động đã qua đào tạo chủ yếu là ở trình độ sơ cấp, trung cấp.

Kết cấu hạ tầng đã được đầu tư thông qua các chương trình, nhưng do địa bàn đầu tư rộng, địa hình chia cắt, phức tạp, nguồn vốn đầu tư ít, phân tán, thiên tai, nhất là lũ ống, lũ quét hằng năm đã phá hoại rất nghiêm trọng, nên kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống.

Văn hóa của một số dân tộc đang bị mai một, mất dần bản sắc; tình trạng pha tạp, biến thái trong các hoạt động văn hóa, lối sống ngày càng bộc lộ rõ nét; mức độ hưởng thụ văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số rất thấp; tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp.

Hệ thống chính trị ở cơ sở còn yếu; số lượng cán bộ chủ chốt là người dân tộc thiểu số còn ít, trình độ cán bộ còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo, quản lý xã hội và xử lý các tình huống xảy ra.

An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, nhất là ở các vùng biên giới, còn tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh nhiều hoạt động nhằm lôi kéo, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.

Để khắc phục các hạn chế, yếu kém nói trên, nhằm không ngừng củng cố và tăng cường đoàn kết các dân tộc trong điều kiện quốc tế và trong nước hiện nay, Đảng và Nhà nước ta kiên trì, nhất quán thực hiện chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, bảo đảm ổn định, phát triển và hội nhập; phát triển toàn diện kinh tế - xã hội, ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng, giảm nghèo và phát triển nguồn nhân lực, hình thành các trung tâm kinh tế, vùng động lực phát triển; đầu tư phát triển đi đôi với thực hiện chính sách an sinh xã hội, giải quyết hài hòa lợi ích. Đồng thời, phát triển vùng dân tộc thiểu số, miền núi bền vững, góp phần ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng đất nước; huy động mọi nguồn lực đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, trong đó ngân sách nhà nước là chủ yếu; công tác dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị.

Sự nghiệp xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải nhằm mục tiêu: Phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi toàn diện, nhanh, bền vững; đẩy mạnh giảm nghèo; rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các dân tộc, các vùng; giảm dần vùng đặc biệt khó khăn; hình thành các trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học, vùng động lực; phát triển nguồn nhân lực; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số; củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở, bảo đảm vững chắc an ninh, quốc phòng.

Thu thập bình quân đầu người ở vùng dân tộc, miền núi tăng lên gấp 4 lần; tỷ lệ lao động nông nghiệp khoảng 50%; giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất, nước sinh hoạt. Bảo đảm 100% đường trục xã, liên xã được nhựa hóa, bê tông hóa, đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật; trên 50% đường trục thôn, xóm được cứng hóa; trên 95% số hộ sử dụng điện thường xuyên; các xã có điểm phục vụ bưu chính, viễn thông; mạng in-tơ-nét kết nối đến hầu hết các thôn, bản.

Giảm nghèo bình quân hằng năm đạt 4%; trên 70% số nhà ở đạt tiêu chuẩn; 100% số xã có trường học kiên cố, nhà công vụ cho giáo viên và ký túc xá học sinh; 95% số trẻ em trong độ tuổi được đến trường, phấn đấu hoàn thành phổ cập giáo dục trung học phổ thông; số sinh viên đạt 300 trên một vạn dân; lao động qua đào tạo đạt trên 50%, trong đó 20% được đào tạo nghề. Tổng tỷ suất sinh 2 con/phụ nữ; tuổi thọ bình quân đạt 70 tuổi; 100% số trạm y tế đạt chuẩn quốc gia và có bác sĩ làm việc; đưa việc khám, chữa bệnh dùng thẻ bảo hiểm y tế về rộng khắp các thôn, bản; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình của cả nước.

Bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết, phong tục tập quán tiến bộ; 100% số hộ gia đình được xem truyền hình; hộ gia đình ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo có nhu cầu được cung cấp thiết bị thu các kênh phát thanh, truyền hình kỹ thuật số với giá cả phù hợp; con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, tinh thần, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật. Đưa tỷ lệ che phủ rừng lên trên 55%.

Bảo đảm tỷ lệ hợp lý cán bộ chủ chốt là người dân tộc thiểu số tại chỗ; 100% số cán bộ, công chức cấp xã được đào tạo, trong đó 70% có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hệ thống chính trị, nhất là cấp cơ sở xã, phường, thôn, bản. Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm an ninh nông thôn, ổn định xã hội, góp phần giữ vững an ninh, quốc phòng ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi.

Để hoàn thành các mục tiêu đó, cần thực hiện tốt các nhiệm vụ và giải pháp sau:

1 - Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nhanh kết cấu hạ tầng kinh tế; hình thành vùng sản xuất chuyên canh gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm; bảo đảm giao thông kết nối vùng, điện thắp sáng, các công trình nước sạch, trường học, trạm y tế, chợ. Phát triển hạ tầng truyền dẫn, phát sóng đồng bộ, các dịch vụ phát thanh, truyền hình, viễn thông và công nghệ thông tin. Triển khai có hiệu quả chương trình đào tạo nghề và xuất khẩu lao động. Tập trung đầu tư phát triển ở các địa bàn đặc biệt khó khăn. Đối với những địa bàn quá khó khăn, không thể sản xuất lương thực được, Nhà nước nên có chính sách cấp lương thực và các nhu yếu phẩm cần thiết để người dân yên tâm giữ gìn tài nguyên, bảo vệ an ninh biên giới.

2 - Điều chỉnh lại mục tiêu đào tạo tại hệ thống các trường đại học, trường dạy nghề để tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số. Chú trọng tăng cường trạm y tế xã, hoàn thành xây dựng bệnh viện tuyến huyện, nâng cấp bệnh viện tuyến tỉnh. Thực hiện tốt chính sách cấp thẻ khám, chữa bệnh cho các đối tượng chính sách, người nghèo, người dân tộc thiểu số. Phát triển mạnh y tế dự phòng, không để xảy ra dịch bệnh lớn; bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân theo quy định của pháp luật.

3 - Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết, tập quán, tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp của đồng bào; tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số. Nâng cao chất lượng hệ thống chính trị, củng cố an ninh nông thôn. Xây dựng và đẩy mạnh hoạt động của tổ chức đảng, đoàn thể đến từng bản, làng; quan tâm phát hiện nguồn, quy hoạch và đào tạo bồi dưỡng cán bộ là người dân tộc thiểu số.

4 - Chủ động giải quyết những mâu thuẫn nội bộ ngay từ cơ sở, kiên quyết không để xảy ra các “điểm nóng”. Sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, chủ động ngăn chặn các hoạt động chống phá khối đại đoàn kết dân tộc, “diễn biến hòa bình”, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để lừa gạt, lôi kéo, kích động đồng bào các dân tộc thiểu số.

5 - Cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các lực lượng vũ trang nhân dân từ Trung ương đến địa phương cần quán triệt sâu sắc, tuyên truyền để cán bộ, nhân dân hiểu rõ vai trò, vị trí, tiềm năng to lớn của địa bàn dân tộc thiểu số, miền núi và chính sách dân tộc nhất quán của Đảng và Nhà nước, để từ đó nhận thức đầy đủ các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và chủ động thực hiện hiệu quả công tác xây dựng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới./.