Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
TCCSĐT - Thực hiện Chỉ thị số 01-CT/TW, ngày 17-3-2011 của Bộ Chính trị về học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, ngày 29-6-2011, tại Hà Nội, Tạp chí Cộng sản tổ chức Tọa đàm khoa học với chủ đề: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. PGS.TS Vũ Văn Phúc, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản chủ trì và có phát biểu đề dẫn tại cuộc tọa đàm khoa học này. Tạp chí Cộng sản Điện tử trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
1. Tổ chức
cơ sở đảng trong hệ thống tổ chức, bộ máy của Đảng
Vai trò, chức năng của tổ chức cơ sở đảng
Ngay từ những ngày đầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã nhấn mạnh phải “Biến mỗi chi bộ thành hạt nhân của các
Hội liên hiệp công nhân”. V.I. Lê-nin đã phát triển tư tưởng đó và chăm lo xây
dựng nhằm xác lập vai trò lãnh đạo của các tiểu tổ công nhân dân chủ xã hội
thành những chi bộ cơ sở trong các nhà máy, công xưởng, những khu dân cư của
Đảng Bôn-sê-víc Nga. Từ đó các TCCSĐ đã tăng lên về số lượng và phong phú về
nội dung và phương thức hoạt động. V.I. Lê-nin đã chỉ rõ: “Những chi bộ ấy liên
hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương Đảng, phải làm công tác cổ động, tuyên
truyền, công tác tổ chức, phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
với tất cả quần chúng lao động... Những chi bộ ấy phải thông qua công tác muôn
hình để rèn luyện đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống”(1).
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta cũng rất quan tâm đến việc xây dựng TCCSĐ,
coi các TCCSĐ là cấp tổ chức nền tảng, là những đơn vị chiến đấu cơ bản, những
tế bào của Đảng; chất lượng của các đảng bộ, chi bộ cơ sở là nhân tố cơ bản tạo
nên chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách mạng. Thực tiễn cách
mạng Việt Nam cho thấy, những thành tựu đã đạt được, những tiềm năng được khai
thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ nỗ lực phấn đấu của quần
chúng ở cơ sở, mà hạt nhân là tổ chức đảng.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt
Với tính cách là nền tảng của Đảng, TCCSĐ có vị trí, vai trò rất quan
trọng đối với sự vững mạnh của Đảng. Đây là cấp tổ chức cuối cùng trong hệ
thống tổ chức bốn cấp của Đảng ta, là cấp tổ chức sâu rộng nhất, gắn với các
đơn vị cơ sở trên toàn lãnh thổ và các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội,
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng tới từng cơ sở, từng đảng viên và từng người dân.
Đây là nơi trực tiếp thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của
Đảng, đồng thời cũng là nơi kiểm nghiệm và góp phần quan trọng vào việc hình
thành, phát triển chủ trương, đường lối của Đảng thông qua những kinh nghiệm
thực tiễn phong phú của đội ngũ đảng viên và quần chúng nhân dân. Đây cũng là
nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động quan trọng trong công tác xây dựng Đảng,
như kết nạp, quản lý, phân công nhiệm vụ, kiểm tra, đánh giá đảng viên; nơi
đảng viên thường xuyên thực hành các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt; nơi xuất
phát đề cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng.
Tổ chức cơ sở đảng còn là cầu nối giữa Đảng với quần chúng nhân dân, là
mắt khâu trọng yếu để duy trì mối liên hệ của Đảng với nhân dân; là tổ chức gần
dân nhất, trực tiếp lãnh đạo nhân dân và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần
chúng nhân dân để phản ánh với Đảng. Dân tin Đảng, theo Đảng hay không là nhờ ở
vai trò rất quan trọng, trực tiếp của TCCSĐ, của cán bộ đảng viên tại cơ sở.
Do TCCSĐ có vai trò quan trọng như vậy, nên ở mọi thời
kỳ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi các TCCSĐ
là những đơn vị chiến đấu cơ bản, những tế bào tạo nên sức sống, sự lớn mạnh
của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ
tốt thì mọi việc sẽ tốt và Đảng mạnh là do chi bộ mạnh, chi bộ mạnh là do từng
đảng viên mạnh. Việc xây dựng, nâng cao chất lượng của TCCSĐ là nhiệm vụ thường
xuyên và quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng.
Năng lực lãnh đạo của TCCSĐ là khả năng quán triệt đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; khả năng vận dụng một
cách sáng tạo và linh hoạt các chủ trương, đường lối, chính sách đó vào hoàn
cảnh, điều kiện cụ thể của đơn vị, cơ quan mình, để đề ra các chủ trương, phương
hướng và giải pháp thực hiện đúng, hiệu quả; có biện pháp tổ chức thực hiện tốt
các nhiệm vụ ở đơn vị; là khả năng tập hợp, động viên, kiểm tra người lao động,
quần chúng nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội ở cơ sở đạt
hiệu quả cao; khả năng chấn chỉnh và cải tiến sinh hoạt đảng, thực hiện có nền
nếp việc quản lý đảng viên và công tác phát triển đảng tại cơ sở.
Năng lực lãnh đạo của TCCSĐ phụ thuộc vào khả năng tuyên truyền, vận
động, thuyết phục, tập hợp quần chúng của từng cán bộ, đảng viên trong tổ chức
đảng, trong đó, tiêu biểu nhất là thể
hiện ở năng lực lãnh đạo của cấp ủy. Năng lực lãnh đạo của cấp ủy càng cao
thì việc đề ra chủ trương, kế hoạch và chương trình hành động của đơn vị càng
bảo đảm kịp thời, đúng đắn, sáng tạo, có hiệu quả. Bí thư cấp ủy phải là người
có đủ phẩm chất, năng lực, nhất là năng lực trong chỉ đạo, điều hành thực tiễn;
có kinh nghiệm về quản lý, tổ chức sản xuất; là người cán bộ gương mẫu về mọi
mặt, có khả năng tập hợp, quy tụ quần chúng, biết khơi dậy trí tuệ của cán bộ,
đảng viên, phối hợp chặt chẽ các hoạt động của cơ quan, các đoàn thể nhân dân;
triển khai tổ chức sản xuất kinh doanh, chương trình công tác của đơn vị đi
đúng hướng và đạt hiệu quả cao.
Sức chiến đấu của TCCSSĐ là khả năng vượt mọi khó khăn, gian
khổ để giành thắng lợi trong quá trình lãnh đạo cơ quan, đơn vị hoạt động đúng
định hướng, đạt hiệu quả cao.
Sức chiến đấu của TCCSĐ được thể hiện tập trung ở chất lượng chính trị
của tổ chức: biểu hiện cụ thể ở phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng và tính
tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ quan, đơn vị; ở sự lãnh
đạo của tổ chức đảng đối với việc thực
hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội đúng chủ trương, định hướng của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ là hai mặt của một vấn đề có quan hệ
biện chứng với nhau. Vì vậy, không nên coi trọng mặt này, xem nhẹ mặt kia, đồng
thời cũng không nên tách biệt tuyệt đối hai mặt đó với nhau. Bởi đó là hai thuộc
tính cần có, gắn bó hữu cơ với nhau của một tổ chức đảng, bảo đảm để tổ chức
đảng thực sự là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
Thực trạng
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số loại hình tổ chức cơ sở đảng
Đánh giá về công tác xây dựng, hoạt động của TCCSĐ thời gian qua, Đại
hội XI của Đảng chỉ rõ: Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên đạt được một số kết
quả tích cực; chú trọng hơn xây dựng, củng cố TCCSĐ ở những vùng, lĩnh vực
trọng yếu, có nhiều khó khăn. Chức năng, nhiệm vụ các loại hình TCCSĐ được xác
định phù hợp hơn. Công tác phát triển, quản lý, nâng cao chất lượng đảng viên
được quan tâm chỉ đạo. Số lượng đảng viên mới kết nạp hàng năm đều tăng. Bên
cạnh đó, Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém, chậm được khắc
phục, như năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít TCCSĐ còn thấp; công
tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh
hoạt nghèo nàn; tự phê bình và phê bình yếu. Việc xây dựng TCCSĐ trong doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn chậm, vai trò của tổ
chức đảng ở đây mờ nhạt.
Thực trạng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên ở nông thôn
Xây dựng TCCSĐ ở khu vực nông thôn, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
nông thôn là một vấn đề lớn và rất cơ bản.
Hiện nay, toàn Đảng có hơn 3,7 triệu đảng viên, 56.000 TCCSĐ, trong đó
có 9.100 TCCSĐ với 1,6 triệu đảng viên ở nông thôn.
Những ưu điểm, yếu kém và nguyên nhân chủ yếu.
Ưu điểm: Số đông TCCSĐ ở nông thôn làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, góp phần nâng cao nhận thức chính trị, ý thức cảnh giác cách mạng, đấu tranh chống "diễn biến hoà bình", chống địch phá hoại về tư tưởng chính trị của các tầng lớp nhân dân ở các địa phương. Đội ngũ cán bộ cấp uỷ nhiệt tình, có kinh nghiệm thực tiễn, số đông cấp ủy cơ sở biết vận dụng, thực hiện đúng chỉ thị, nghị quyết, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào điều kiện cụ thể của địa phương mình. Đa số đảng viên có phẩm chất chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng, tâm huyết với sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Hạn chế: Công tác tuyên truyền, tổ chức học tập quán triệt chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân ở một số cơ sở chưa được coi trọng đúng mức. Việc triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở nhiều nơi chưa tốt, thậm chí có nơi có lúc còn vi phạm, gây hậu quả phức tạp, làm suy giảm lòng tin của đảng viên, của nhân dân, làm mất ổn định an ninh, trật tự tại địa phương.
Tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống, thiếu tinh thần trách nhiệm, quan liêu xa rời quần chúng nhân dân của một bộ phận cán bộ cơ sở làm suy giảm sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng. Đội ngũ cán bộ nhìn chung còn yếu và thiếu về chuyên môn, trình độ lý luận. Năng lực lãnh đạo điều hành còn hạn chế.
Những yếu kém đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng ở cơ sở không theo kịp sự thay đổi cơ chế, chính sách chung và thực tiễn ở địa phương; nhiều vấn đề chưa có tiền lệ, chưa kịp tổng kết, bổ sung, hoàn chỉnh; bệnh thành tích, báo cáo sai sự thật để vụ lợi danh dự nhất thời cho tập thể, cá nhân còn tồn tại; một số tổ chức Đảng chưa quan tâm đúng mức tới công tác giáo dục chính trị tư tưởng; công tác xây dựng Đảng ở một số nơi bị buông lỏng, các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng không được tuân thủ chặt chẽ.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng thiếu thường xuyên; công tác quản lý đảng viên, phân công nhiệm vụ, công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở chưa tốt. Nhận thức của đảng viên ở nông thôn còn thấp, không đồng đều.
Cấp ủy cấp trên chưa thật sâu sát cơ sở, có nơi buông lỏng quản lý, dẫn đến tình trạng khi cơ sở làm sai nguyên tắc, sai chính sách, pháp luật, nhưng không nắm được và không chấn chỉnh kịp thời.
Đảng viên ở nông thôn “đông nhưng không mạnh”. Sức ép của dòng họ, thứ
bậc, tính cục bộ của làng xóm chi phối rất lớn. Vị trí, vai trò người đảng viên
bị suy giảm trong lãnh đạo nông thôn thực hiện sự nghiệp đổi mới; vị thế, tiếng
nói của đảng viên nông thôn rất yếu, ít được quan tâm, ít được xem trọng trong
thực tế… Việc tổng kết rút kinh nghiệm, các bài học có tính lý luận và thực tiễn
rất ít được phổ biến, truyền đạt, vì vậy trong công tác rất khó có sự sáng tạo;
tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình yếu, tình trạng “dĩ hòa, vi quý”
khá phổ biến trong đảng viên nông thôn hiện nay...
Về tổ chức cơ sở đảng trong các loại hình doanh nghiệp
Trong khối doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài
Theo số liệu thống
kê, hiện cả nước có khoảng 172.500 doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Hai khối doanh nghiệp này phát triển nhanh cả về số lượng và
quy mô, thu hút mạnh mẽ các nguồn lực đầu tư cho sản xuất kinh doanh, tạo thêm
nhiều việc làm, tăng thu ngân sách cho Nhà nước...
Tính đến
31-12-2010, trong các doanh nghiệp tư nhân có 3.101 TCCSĐ với 34.185 đảng viên.
Trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có 555 TCCSĐ với 6.355 đảng viên.
Nhiều tổ chức
đảng ở các doanh nghiệp này đã hoạt động tốt, đã đề ra được các hình thức, biện
pháp đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước tới cán bộ, đảng viên và người lao động; kịp thời
nắm bắt diễn biến tư tưởng, tâm tư nguyện vọng và những kiến nghị đề xuất của
đảng viên, quần chúng để đề nghị chủ doanh nghiệp xem xét, giải quyết, hạn chế
các vụ tranh chấp giữa chủ doanh nghiệp và người lao động. Nhiều tổ chức đảng
đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, đem
lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp. Từ đó, làm cho chủ doanh nghiệp thấy
rõ vai trò, vị trí của tổ chức đảng đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
Bên cạnh những
kết quả tích cực nêu trên, vai trò, vị trí của tổ chức đảng ở đây còn chưa được thể hiện rõ. Năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của một số cấp ủy còn yếu, có nơi còn ngại khó khăn, thụ động.
Nội dung sinh hoạt chi bộ nghèo nàn. Công tác quản lý đảng viên rất lỏng lẻo...
Tỷ lệ doanh
nghiệp trong khối này có TCCSĐ còn thấp.
Tổ chức cơ sở đảng trong
các đơn vị sự nghiệp (cơ quan nghiên cứu khoa học, các cơ sở giáo dục đào tạo,
y tế)
Những
điểm mạnh: Nhìn chung các TCCSĐ, cấp ủy ở các đơn vị nghiên cứu
khoa học, cơ sở giáo dục đào tạo, y tế đã cố gắng tìm cho mình những phương
thức lãnh đạo, hoạt động thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo. Các tổ chức
đảng ở đây đều quan tâm xây dựng chi bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, đồng thời giữ vai trò nòng cốt trong việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị
của đơn vị; tham gia xây dựng các chương trình hành động, các kế hoạch nghiên
cứu khoa học, giáo dục đào tạo, y tế.
Những
hạn chế, yếu kém: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
chỉ rõ, một trong những nguyên nhân của những yếu kém, bất cập, hạn chế trong
lĩnh vực nghiên cứu khoa học, giáo dục đào tạo, y tế ở nước ta những năm vừa
qua là do công tác đảng, công tác chính trị - tư tưởng trong một số viện, trung
tâm nghiên cứu khoa học, trường đại học, bệnh viện còn yếu. Vai trò lãnh đạo
của tổ chức đảng ở những nơi này chưa được phát huy. Việc phát triển đảng trong
đội ngũ trí thức chưa được quan tâm đầy đủ.
Đảng xác lập sự lãnh đạo toàn diện đối
với hoạt động khoa học, công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế, nhất là trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tinh thần đó phải được quán triệt
sâu sắc hơn bao giờ hết. Thế nhưng, dường như rất ít nơi thực hiện được điều
đó. Ở một số đơn vị nghiên cứu, giáo dục đào tạo, y tế, vai trò lãnh đạo của tổ
chức đảng còn mờ nhạt...
Nội dung sinh hoạt đảng, nhất là ở chi
bộ, còn nghèo nàn và mang nặng tính hình thức. Quan hệ giữa cấp ủy và lãnh đạo
chính quyền còn những bất cập, lúng túng về nội dung, phương thức lãnh đạo...
Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII đã
chỉ rõ: Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định
làm cho khoa học và công nghệ trở thành nền tảng và động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó, việc xem xét, nghiên cứu,
trao đổi về phương thức lãnh đạo, về nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động,
về cải tiến tổ chức bộ máy đảng là một nội dung quan trọng để nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng trong các cơ quan, đơn vị nghiên cứu khoa học.
Một số giải pháp tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng
Để tiếp tục nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các loại hình TCCSĐ trong tình hình
mới, cần triển khai thực hiện một số giải pháp chủ yếu dưới đây:
Một
là, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và kiện
toàn TCCSĐ. Tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại hình
TCCSĐ, nhất là TCCSĐ ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa và ở các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế.
Hai
là, gắn việc xây dựng
các TCCSĐ trong sạch, vững mạnh với xây dựng đơn vị, cơ quan và các đoàn thể
quần chúng mạnh. Xác định rõ trách nhiệm của chi bộ, tổ đảng và phân công nhiệm
vụ cho từng đảng viên trong công tác, trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Để
đảm bảo vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng (nhất là trong các doanh nghiệp),
nhất thiết phải có quy chế phối hợp công tác giữa cấp ủy với chính quyền, cấp
ủy với ban giám đốc, cấp ủy với thủ trưởng cơ quan, đơn vị; giữa bí thư cấp ủy
với người đứng đầu chính quyền các cơ quan, đơn vị.
Ba là, đổi
mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, gắn nội dung sinh hoạt chi bộ thường
kỳ với tình hình, nhiệm vụ của đơn vị, địa phương. Tăng cường sinh hoạt chuyên
đề, đưa nội dung đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào
sinh hoạt đảng
Bốn là, chú
trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên và làm tốt công tác phát
triển Đảng, nhất là ở nông thôn, ở các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Xác lập tiêu chí, các yêu cầu cụ thể đối với đảng viên, có
tính đến đặc thù riêng.
Năm là, nâng
cao hiệu quả công tác vận động nhân dân, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và
nhân dân.
Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng.
Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ là nội
dung cơ bản, nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng với phương châm lãnh đạo phát
triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Trong tình hình hiện
nay, vấn đề này lại càng cấp bách và quan trọng, làm cho các TCCSĐ quán triệt
sâu sắc đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đề ra chủ trương
giải pháp đúng, lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ của đơn vị, phát triển kinh tế,
cải thiện, nâng cao đời sống người lao động, thực hiện tốt quy chế dân chủ,
chống tham nhũng, giải quyết nguyện vọng chính đáng, thiết thực, bức xúc của
người lao động, quần chúng nhân dân.
Đảng ta muốn thực sự mạnh, phải chăm lo công tác xây dựng, nâng cao chất lượng của TCCSĐ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Phải có các biện pháp đồng bộ, chúng ta mới nâng cao được chất lượng của tổ chức đảng ở cơ sở và bảo đảm cho các TCCSĐ thực sự là nền tảng, hạt nhân chính trị của Đảng.
-----------------------------------------------
(1) V. I. Lê-nin. Toàn tập, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.41, tr. 232
(2) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.35
Đoàn đại biểu Ủy ban Dân tộc thăm và làm việc tại Liên bang Nga  (01/07/2011)
Thông báo về xử lý kỷ luật cán bộ  (01/07/2011)
Chính sách tiền tệ đang tạo niềm tin cho nhà đầu tư  (30/06/2011)
Chính sách tiền tệ đang tạo niềm tin cho nhà đầu tư  (30/06/2011)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm