Về vấn đề bình đẳng giới

15:42, ngày 22-10-2009

TCCS - Lời Bộ Biên tập: Bình đẳng giới là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển của mỗi xã hội, mỗi đất nước. Đây chính vừa là mục tiêu, vừa là yếu tố để góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Tạp chí kỳ này xin trao đổi cùng bạn đọc chung quanh vấn đề trên.

* Hỏi: Định hướng quản lý nhà nước về bình đẳng giới ở nước ta hiện nay?

Đáp: Bình đẳng giới là một mục tiêu lớn mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đặt ra ngay từ những ngày đầu khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong Tuyên ngôn Độc lập, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng”. Tư tưởng đó đã được quán triệt nhất quán trong quá trình xây dựng đất nước suốt 64 năm qua.

Trong Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, năm 1946, quan điểm bình đẳng giới đã được thể hiện bằng nguyên tắc: Không phân biệt giống nòi, gái trai. Và đã quy định: Tất cả các công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện.

Quan điểm đó tiếp tục được kế thừa và phát triển phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và thời đại qua các lần sửa đổi Hiến pháp năm 1959, 1980 và đặc biệt, tại Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, quan điểm này tiếp tục được khẳng định: Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Từ đó, những tư tưởng tiến bộ về bình đẳng giới nói trên đã không ngừng phát triển và được cụ thể hóa bằng các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt, trong giai đoạn đổi mới và hội nhập, công tác xây dựng pháp luật dựa trên nguyên tắc tiếp cận về quyền và bình đẳng giới được Đảng, Nhà nước, Quốc hội và các cơ quan nhà nước rất quan tâm.

Vấn đề bình đẳng giới được thể chế hóa trong hầu hết các văn bản pháp luật, đã tạo cơ sở pháp lý, tạo điều kiện và cơ hội trao quyền bình đẳng cho cả nam và nữ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Dạy nghề, Luật Giáo dục, Luật Khoa học và Công nghệ, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Chăm sóc sức khỏe nhân dân, Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Cư trú, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Pháp lệnh Cán bộ, công chức,... và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác như các nghị định, quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành.

Để thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, Chính phủ đã có nhiều giải pháp như ban hành các chính sách đặc thù; lồng ghép vào các chiến lược, chương trình mục tiêu quốc gia như: Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo, Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, về việc làm, về bảo hộ lao động, về giáo dục, về dạy nghề, về y tế cộng đồng. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình đã có những quy định riêng cho phụ nữ, tạo điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện bình đẳng giới một cách thực chất.

Đặc biệt, ngày 29-11-2006, Luật Bình đẳng giới đã được Quốc hội khóa XI thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2007. Luật Bình đẳng giới tiếp tục thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nam và nữ; đồng thời tiếp tục khẳng định quyết tâm mạnh mẽ của Việt Nam trong việc cụ thể hóa và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người và bình đẳng giới mà Việt Nam là thành viên.

* Hỏi: Việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam còn gặp những thách thức gì?

Đáp: Tuy đã có một hệ thống pháp luật về bình đẳng giới tương đối hoàn chỉnh, nhưng là một nước đang phát triển, chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo nên việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập:

- Tư tưởng mang tính định kiến về giới còn tồn tại khá phổ biến trong nhân dân, kể cả trong một bộ phận cán bộ, công chức. Đó là những định kiến về giới và tư tưởng trọng nam hơn nữ trong xã hội, cụ thể là hầu hết các gia đình đều thích sinh con trai hơn con gái; coi công việc gia đình, chăm sóc con cái, người già, người ốm là công việc của phụ nữ...; thời gian làm việc của phụ nữ thường kéo dài hơn nam giới khoảng 4 giờ trong ngày, chủ yếu là ngoài công việc xã hội phụ nữ phải lo toan công việc nội trợ trong gia đình. Phụ nữ ít có thời gian nghỉ ngơi, học tập nâng cao trình độ hơn nam giới, nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Việc bồi dưỡng, phát triển cán bộ nữ ở một số nơi còn hạn chế. Trong lao động việc làm, mặc dù chênh lệch về tỷ lệ không nhiều, nhưng thu nhập thực tế của nam giới vẫn cao hơn ở nữ giới.

- Nguyên tắc bình đẳng giới chưa được cụ thể hóa toàn diện và triệt để trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, một số quy định được ban hành nhưng thiếu chế tài, biện pháp, nguồn lực và cơ chế đủ mạnh để bảo đảm thực hiện. Chênh lệch về tỷ lệ nam nữ tham gia quản lý, lãnh đạo ở các cấp khá cao (phụ nữ chưa bằng 1/3 nam giới). Tỷ lệ nữ là lao động phổ thông và công nhân chưa qua đào tạo cao hơn nam giới 1,5 lần. Lao động nữ có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chỉ bằng 42% so với lao động nam. Thu nhập bình quân của lao động nữ bằng khoảng 79% của lao động nam.

- Việc chăm sóc sức khỏe sinh sản chưa được quan tâm đầy đủ. Công việc gia đình vẫn được coi là công việc không được trả công và phần lớn đều do phụ nữ đảm nhận. Tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn nặng nề. Tình trạng ngược đãi, bạo lực, buôn bán phụ nữ và trẻ em gái vẫn tồn tại.

* Hỏi: Để triển khai bình đẳng giới có hiệu quả, cần có những giải pháp nào?

Đáp: Để góp phần thực hiện tốt vấn đề bình đẳng giới, cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung:

Một là, xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới. Xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới. Trước mắt, xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới với hệ thống mục tiêu, chỉ tiêu, công cụ theo dõi, đánh giá và hệ thống giải pháp toàn diện, đồng bộ.

Hai là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới; nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vấn đề giới và bình đẳng giới. Hướng dẫn các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội thực hiện thông tin, giáo dục pháp luật về bình đẳng giới có hiệu quả, thiết thực và phù hợp với từng đối tượng cụ thể.

Ba là, hình thành và kiện toàn hệ thống tổ chức, cán bộ quản lý nhà nước về bình đẳng giới từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Tổ chức đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý lĩnh vực, cán bộ chuyên trách, các cộng tác viên chuyên nghiệp thực hiện công tác bình đẳng giới. Ngoài việc sử dụng có hiệu quả nguồn lực từ ngân sách, cần tranh thủ thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính, hỗ trợ kỹ thuật trong và ngoài nước, bảo đảm thực hiện mục tiêu xã hội hóa công tác bình đẳng giới.

Bốn là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới. Bổ sung kiến thức về giới và bình đẳng giới, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác này; tăng cường sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, nhất là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong việc thực hiện các quy định pháp luật về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ./.