Ngành chế biến thủy sản - giải pháp nào cho tình trạng “đói” nguyên liệu?
Xuất khẩu thủy sản nước ta đang đạt tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trong vòng 3 năm qua cả về khối lượng và trị giá. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), năm nay dự kiến kim ngạch xuất khẩu thủy sản sẽ đạt khoảng 4 - 4, 5 tỉ USD, nhưng nếu muốn vượt lên 6 - 7 tỉ USD thì buộc phải nhập khẩu nguyên liệu để chế biến. Theo đó, Việt Nam cần nhập khẩu khoảng 2 tỉ USD nguyên liệu thủy sản mỗi năm. Đây chính là vấn đề cần bàn…
Từ khởi sắc xuất khẩu thuỷ sản…
Theo VASEP, chỉ riêng trong tháng 7-2008, Việt Nam đã xuất khẩu 136.125 tấn thuỷ sản, đạt trị giá 475,976 triệu USD, tăng 76,9% về lượng và 39,8% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, tôm đông lạnh và cá tra, cá basa giữ vai trò chủ đạo với 171,934 triệu USD và 154,542 triệu USD, tăng lần lượt là 8,4% và 94% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, tính từ đầu năm đến nay, xuất khẩu thuỷ sản cả nước đã đạt gần 2,38 tỉ USD, tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Với tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trong 3 năm qua, mục tiêu xuất khẩu thuỷ sản trong năm 2008 đã đến rất gần.
Điểm nổi bật trong xuất khẩu thủy sản 7 tháng đầu năm nay là sự “lên ngôi” của cá tra, ba sa (chiếm 31,9% với 762,79 triệu USD, gần bằng tôm đông lạnh). Đặc biệt, xuất khẩu cá tra, ba sa sang thị trường Nga tăng trưởng rất mạnh. Trong tháng 7, kim ngạch xuất khẩu sang Nga tăng gấp 64 lần so với cùng kỳ năm ngoái; đưa Việt Nam trở thành nhà cung cấp thủy sản lớn thứ 5 của Nga. Cũng theo VASEP, Cục Kiểm dịch động, thực vật Liên bang Nga (VPSS) cũng vừa kết thúc đợt kiểm tra điều kiện sản xuất tại cơ sở chế biến thủy sản và hoạt động kiểm tra, chứng nhận chất lượng các lô hàng thủy sản xuất khẩu vào Nga của cơ quan chức năng Việt Nam. Do vậy, khả năng từ nay đến cuối năm, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Nga tiếp tục khởi sắc. Bên cạnh Nga, U-crai-na cũng đang là thị trường tiềm năng với các sản phẩm cá tra, ba sa của Việt Nam. Cũng trong 7 tháng đầu năm nay, xuất khẩu thủy sản sang thị trường U-crai-na đã tăng 200% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Đây quả là những tín hiệu đáng mừng.
… đến nguy cơ các nhà máy “đói” nguyên liệu!
Tuy nhiên, theo số liệu của ngành Hải quan, trong 3 năm trở lại đây, Việt Nam đã nhập khẩu nguyên liệu chế biến thủy sản từ 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng giá trị khoảng 250 triệu USD /năm. Riêng năm 2007, nhập khẩu nguyên liệu và bán thành phẩm các loại là 122.196 tấn, bằng hơn 3% tổng sản lượng thủy sản của Việt Nam (4,16 triệu tấn). Một thống kê khác của VASEP cho thấy, thời gian gần đây, hệ thống nhà máy chế biến thủy sản nước ta phát triển với tốc độ nhanh hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng sản lượng hải sản khai thác và nuôi trồng. Hiện cả nước có hơn 450 nhà máy chế biến, chỉ tính riêng công suất cấp đông của các nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh đã lên tới 1,7 triệu tấn thành phẩm/năm (tương ứng với 5,1 triệu tấn nguyên liệu); trong khi đó, tổng sản lượng nguyên liệu đủ tiêu chuẩn sản xuất thực phẩm ước tính mới chỉ đạt dưới 3,2 triệu tấn/năm.
Trong khi năng lực nuôi trồng, khai thác trong nước có hạn, sự gia tăng các nhà máy chế biến đã tạo ra sức ép khá lớn đối với khả năng tự cân đối nguồn nguyên liệu trong nước. Cũng theo VASEP, tình trạng thiếu nguyên liệu xảy ra trầm trọng nhất là ở các nhà máy ở khu vực miền Trung và miền Bắc. Để đảm bảo uy tín với đối tác, nhiều doanh nghiệp buộc phải nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất và chấp nhận thua lỗ nhằm bảo đảm hoàn thành hợp đồng đã ký từ trước với các đối tác. Ngay tại các nhà máy chế biến thuỷ sản tại đồng bằng sông Cửu Long là vùng được coi là rất có tiềm năng cũng đang lâm vào tình trạng “đói” nguyên liệu, dẫn đến công nhân thiếu việc làm, thu nhập và sản xuất bấp bênh do nguồn cung không ổn định.
Theo ước tính, vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện có diện tích nuôi cá da trơn khoảng 5.450 ha. Theo kế hoạch, năm 2008 toàn vùng phấn đấu đạt sản lượng khoảng hơn 1,2 triệu tấn cá tra nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu. Ông Huỳnh Thế Năng, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang cho biết, do giá bán cá quá thấp, trong khi việc vay vốn quá khó khăn, nên sau khi giải phóng hết số cá tồn đọng, nhiều hộ dân đã “treo ao” không nuôi tiếp.
Tương tự, tại tỉnh Đồng Tháp và một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long khác, diện tích ao cá tra bị “treo” đã chiếm từ 15-20% tổng diện tích nuôi; thậm chí, có huyện, diện tích “ao treo” lên tới 30%. VASEP nhận định, nếu tình hình này tiếp diễn, cuối năm, các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu cá tra, cá ba sa sẽ phải đối mặt với tình trạng thiếu nguyên liệu trầm trọng. Đây là hệ quả tất yếu của việc nông dân mở rộng diện tích nuôi cá ồ ạt theo kiểu được chăng hay chớ, không theo quy hoạch, cùng với việc doanh nghiệp ép giá nông dân tái diễn từ nhiều năm qua.
Cùng với cá, chế biến xuất khẩu tôm cũng lao đao không kém, mà nguyên nhân là do sản lượng khai thác từ đánh bắt thấp, tôm sú nuôi bị bệnh chết hàng loạt bởi thời tiết thất thường, mầm bệnh lây lan rộng. Những năm trước, khi tôm chết, người dân tiếp tục thả lại, nhưng năm nay họ chấp nhận mất trắng vì lo sợ dịch bệnh tái diễn, cùng với thị trường “đầu ra” đang có chiều hướng bất lợi. Vào cuối tháng 8-2008 này, dù không phải thời điểm thu hoạch tôm chính vụ, nhưng giá tôm sú nguyên liệu tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long vẫn đang giảm mạnh. Tại hai tỉnh Bạc Liêu và Sóc Trăng, thương lái mua tôm sú loại 20 con/kg chỉ với giá 130 nghìn -132 nghìn đồng/kg, (giảm gần 20 nghìn đồng/kg so với trước đó). Sở dĩ giá tôm sú nguyên liệu giảm là do hiện nay thị trường trong và ngoài nước đang ưa chuộng tôm thẻ chân trắng, vì giá thấp hơn.
Theo ông Ngô Phước Hậu, phó chủ tịch VASEP: phần lớn các nhà máy chế biến thủy sản hiện chỉ hoạt động 50% công suất thiết kế do không có đủ nguyên liệu, nhất là trong lúc giáp vụ. Ở miền Bắc và miền Trung, do chủ yếu dựa vào nguồn nguyên liệu đánh bắt nên đang thiếu trầm trọng nguồn nguyên liệu cho chế biến, trong khi nguồn nguyên liệu đánh bắt ngày càng giảm đi do nguồn thuỷ sản cạn kiệt, cộng với chi phí đánh bắt trên biển rất cao do giá dầu tăng. Bên cạnh đó, chúng ta lại đang bị mất cân đối nghiêm trọng trong đánh bắt và chế biến ở các vùng biển khác nhau; chẳng hạn không thể chở cá tra ra miền Bắc hay miền Trung để chế biến vì các nhà máy này không có chuyên môn chế biến loại cá này.
Nguyên nhân và giải pháp
Có một thực tế là, điều kiện quan trọng nhất bảo đảm cho hoạt động chế biến thuỷ sản ổn định và phát triển là phải đáp ứng đầy đủ và kịp thời nguồn nguyên liệu “đầu vào”. Tuy nhiên, thực trạng trên đang đặt ra trước các nhà hoạch định chính sách, mà trực tiếp là các nhà sản xuất những vấn đề không kém nan giải.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình hình nêu trên là do thiếu nguyên liệu. Nhưng nguyen nhân sâu xa chính là do đang thiếu một quy hoạch tổng thể, dẫn đến nguồn nguyên liệu khi thừa, khi thiếu, luôn phụ thuộc và bị động. Điều này còn dẫn đến tình trạng sản xuất tự phát, mạnh ai nấy làm; thiếu sự ràng buộc chặt chẽ giữa người nuôi trồng với người chế biến vì lợi ích chung. Một lý do khác là gần đây, do giá xăng dầu tăng đột biến, buộc ngư dân trên cả nước phải cho tàu thuyền nằm bờ vì không chịu nổi chi phí đánh bắt cao. Trong khi đó, đối với nguyên liệu nhập khẩu, nhiều doanh nghiệp do đã ký hợp đồng nên nhập khẩu ồ ạt nguyên liệu, nhiều khi phải chấp nhận giá nhập khẩu nguyên liệu cao dẫn đến giá thành sản xuất cao (do phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường thế giới), vì thế khó duy trì sản xuất và có lãi.
Để khắc phục tình trạng trên, giải pháp có tính cơ bản và lâu dài nhất, theo chúng tôi là: Nhà nước cần có chiến lược thiết kế quy hoạch tổng thể đối với lĩnh vực này. Cùng với việc xác định rõ tiềm năng, quy mô của từng vùng nguyên liệu, cần có sự quy hoạch cụ thể về số lượng nhà máy chế biến cho từng vùng, miền cũng như đối với cả nước, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu cung ứng nguồn nguyên liệu, bảo đảm cho các nhà máy trên địa bàn sản xuất ổn định và hiệu quả. Mặt khác, cần có quy chế để chấn chỉnh việc ký kết hợp đồng xuất khẩu của các nhà máy với đối tác; trong đó làm sao vừa bảo đảm thực hiện tốt những cam kết để giữ uy tín với khách hàng, vừa khắc phục tình trạng “bao sân”, được chăng hay chớ trong việc ký kết hợp đồng của một số doanh nghiệp, gây nên sự mất ổn định trên thị trường chế biến cũng như xuất khẩu thuỷ sản./.
Nghị quyết Số: 20/2008/NQ-CP của Chính phủ, ngày 29 tháng 8 năm 2008  (31/08/2008)
Cán bộ y tế sẽ luân phiên về hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới  (30/08/2008)
Kỷ niệm Quốc khánh 2-9 tại San Francisco  (30/08/2008)
Đẩy mạnh công nghệ thông tin trong trường học  (30/08/2008)
Nghiên cứu về biến đổi cơ cấu xã hội tại Ấn Độ  (29/08/2008)
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm