Thúc đẩy chuyển đổi số doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số địa phương đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
TCCS - Kinh tế số - xu thế phổ biến trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đã tác động mạnh mẽ đến kinh tế thế giới, trong đó có kinh tế Việt Nam. Trong phát triển kinh tế số, doanh nghiệp và người dân có vai trò rất quan trọng. Ở Việt Nam nói chung và ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng, phần lớn các doanh nghiệp là nhỏ và vừa, do vậy, để đạt được mục tiêu phát triển nền kinh tế số, thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa phải tích cực chuyển đổi số và quá trình này cần đồng bộ với việc xây dựng chính quyền số và xã hội số.
1. Kinh tế số được hiểu là toàn bộ hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng số và phát triển kinh tế số là sử dụng công nghệ kỹ thuật số và dữ liệu để tạo ra những mô hình kinh doanh mới. Năm 2019, tại Trung Quốc, kinh tế số chiếm 37% GDP; tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương chiếm 25% GDP. Tại Việt Nam, theo Bộ Thông tin và Truyền thông, kinh tế số của Việt Nam đạt 23 tỷ USD trong năm 2022 và đang trên đà đạt 49 tỷ USD vào năm 2025, là mức tăng trưởng nhanh nhất tại khu vực nhờ lợi thế dân số, nguồn lao động có kỹ năng số và những nỗ lực chuyển đổi số đáng kể từ Chính phủ và các ngành, lĩnh vực, cũng như sự tập trung của nhà đầu tư vào Việt Nam(1).
Nhận thức tầm quan trọng của phát triển kinh tế số, Đảng và Nhà nước ta đã sớm có chủ trương, giải pháp đồng bộ và kịp thời, như: Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 4-5-2017, về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Nghị quyết số 52/NQ-TW, ngày 27-9-2019, của Bộ Chính trị, về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Quyết định số 749/2020/QĐ-TTg, ngày 3-6-2020, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao,…”(2); “Phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”(3); “Nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, tạo cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi số nền kinh tế quốc gia và phát triển kinh tế số”(4). Văn kiện Đại hội XIII cũng nhấn mạnh tinh thần lấy doanh nghiệp làm trung tâm; thúc đẩy phát triển mô hình kinh doanh mới, kinh tế số, xã hội số.
Chuyển đổi số chỉ thực sự thành công khi người dân, doanh nghiệp, chính quyền tích cực tham gia và thụ hưởng các lợi ích mà chuyển đổi số mang lại. Chuyển đổi số cũng tạo ra cơ hội cho người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo tiếp cận dịch vụ trực tuyến một cách rộng khắp, công bằng, bình đẳng và nhân văn. Trong quá trình chuyển đổi số, doanh nghiệp sẽ tích hợp các công nghệ kỹ thuật số vào hoạt động của mình, dựa vào công nghệ để tạo ra những thay đổi căn bản trong cách thức vận hành, mô hình kinh doanh, hướng tới cung cấp các giá trị mới cho khách hàng, đồng thời nâng cao hiệu quả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nhận thấy, chuyển đổi số đã tác động tích cực đến hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng, mở ra nhiều cơ hội trong việc nâng cao trình độ công nghệ, năng lực sản xuất và cạnh tranh trong chuỗi sản phẩm; tạo ra sự thay đổi về hình thái kinh doanh dịch vụ; giảm chi phí giao dịch, vận chuyển; tạo cơ hội đầu tư hấp dẫn trong lĩnh vực công nghệ số cũng như sản xuất công nghiệp với trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến, hình thành, phát triển các doanh nghiệp số.
Mặc dù lợi ích của chuyển đổi số là rõ rệt, tuy nhiên, chuyển đổi số không chỉ là áp dụng công nghệ, mà cần có sự chuyển đổi đồng bộ trong hệ thống doanh nghiệp và các bên liên quan, cả về tư duy, sự cam kết thực hiện và sự hiểu biết, cùng với sự thành thạo trong triển khai mới bảo đảm thành công. Khó khăn và thách thức lớn nhất của chuyển đổi số mà tất cả mọi doanh nghiệp đều gặp phải là yếu tố con người, bao gồm: tư duy chủ quan; hạn chế hiểu biết của nhà lãnh đạo và cả đội ngũ nhân viên trong lĩnh vực công nghệ; thiếu minh bạch hoạt động kinh doanh; tâm lý ngại chia sẻ, giữ riêng bí quyết công việc, tinh thần làm việc nhóm yếu, thiếu nhân lực có trình độ cao, am hiểu công nghệ số.
2. Đồng bằng sông Cửu Long thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, bao gồm 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, “chiếm 12% diện tích, 19% dân số cả nước, mạng lưới sông, kênh, rạch dày đặc; có lợi thế về phát triển nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, du lịch, năng lượng tái tạo; là trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất của Việt Nam: đóng góp 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản và 70% các loại trái cây của cả nước; 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% sản lượng cá xuất khẩu”(5); là một trong những đồng bằng lớn nhất, phì nhiêu nhất ở Đông Nam Á và thế giới với 4 khu dự trữ sinh quyển, vườn quốc gia, khu bảo tồn tự nhiên. Ngoài ra, vùng cũng có nhiều tiềm năng về năng lượng tái tạo, như: năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng thủy triều…
Môi trường kinh doanh của vùng khá thuận lợi, được cải thiện liên tục. Tính đến ngày 31-12-2021, tổng số doanh nghiệp đang hoạt động là 62.130 doanh nghiệp, trong đó 4 tỉnh Long An, Cần Thơ, Kiên Giang, Tiền Giang chiếm tới 54,47% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động của cả vùng(6). Với đặc thù kinh tế nông nghiệp là trọng điểm và vẫn còn nhiều hạn chế, chưa có sự phát triển đồng bộ, mạnh mẽ, mật độ doanh nghiệp so với quy mô dân số thuộc mức trung bình thấp so với cả nước, trong đó, số lượng doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ cũng như kinh tế hộ gia đình chiếm đa số. Năm 2021, Chỉ số xếp hạng chuyển đổi số quốc gia (bao gồm 3 chỉ số: chính quyền số, xã hội số và kinh tế số) ở mức trung bình thấp, cá biệt có 2 địa phương là Sóc Trăng xếp thứ 56/63, Bạc Liêu xếp thứ 63/63 so với cả nước(7).
Quá trình chuyển đổi số của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở ĐBSCL thể hiện rõ hơn cả ở khu vực kinh tế nông nghiệp. Hiện nay, dưới sự tác động của xu hướng phát triển kinh tế số và toàn cầu hoá, kinh tế nông nghiệp của ĐBSCL phải chuyển mình, thay đổi để bắt nhịp và đáp ứng với yêu cầu của hội nhập nền kinh tế số của thế giới. Thời gian qua, các địa phương trong vùng đều quyết tâm cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước về chuyển đổi số nền kinh tế thành các chương trình, hành động chuyển đổi số ở những lĩnh vực cụ thể, gắn với ưu thế của vùng, chủ động ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; thể hiện ý chí và quyết tâm cao trong việc thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, tạo chuyển biến lớn trong hành động của cấp ủy và chính quyền địa phương. Nhiều mô hình ứng dụng các giải pháp chuyển đổi số đã triển khai trong sản xuất nông nghiệp giúp giảm công lao động, chi phí sản xuất và nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Cụ thể như tự động hóa giám sát cây trồng, vật nuôi một cách liên tục, phân tích diện rộng tình hình thời tiết, độ ẩm, sâu bệnh, phục vụ sản xuất nông nghiệp an toàn, hiệu quả... Các mô hình chuyển đổi số đang tạo ra những dịch vụ có lợi cho người dân và tận dụng một cách hiệu quả nguồn lực của xã hội, đồng thời, cũng tạo ra những thay đổi cơ bản so với mô hình kinh doanh truyền thống tại một số địa phương. Cụ thể:
Tại Đồng Tháp, nông dân và thành viên hợp tác xã dùng điện thoại thông minh thao tác nhập dữ liệu cho quy trình canh tác, áp dụng điều tiết nước theo nhu cầu cây lúa bằng công nghệ 4.0 thông qua hệ thống cảm biến mực nước hoạt động bằng pin năng lượng mặt trời và thiết bị bơm tưới nước tự động, qua đó giúp giảm được chi phí bơm tưới. Tại một số vườn cây, khách hàng mua cây và gửi lại vườn, quá trình chăm sóc cây cho đến khi cây kết trái được các nông hộ cập nhật liên tục qua mạng cho khách hàng, như mô hình “Cây xoài nhà tôi”, “Cây cam nhà tôi”, “Thửa ruộng nhà mình”... Những mô hình vườn cây online như trên giúp gia tăng tiêu thụ nông sản của địa phương. Mô hình triển lãm thực tế ảo cũng giới thiệu đến khách hàng nhiều hình ảnh sống động, các thông tin, dữ liệu liên quan đến nông sản từ ưu thế về điều kiện canh tác, quy mô vùng trồng, giá trị kinh tế đến những nét văn hóa đặc sắc về ẩm thực, dịch vụ hoặc chế biến, xuất khẩu. Đối với lĩnh vực du lịch, một số khu di tích, điểm du lịch triển khai ứng dụng tra cứu thông tin du lịch bằng quét mã QR Code; thông qua chuyển đổi số, các sản phẩm du lịch được thiết kế phong phú, đa dạng hơn, giúp du khách có nhiều lựa chọn hơn khi tiếp cận các dịch vụ, sản phẩm.
Tại Cần Thơ, các chương trình triển khai phần mềm truy xuất nguồn gốc các sản phẩm đặc trưng tạo thuận lợi cho sản xuất và tiêu thụ. Hơn 25.000 hộ sản xuất được hỗ trợ chuyển đổi số trong sản xuất và đăng ký tham gia tiêu thụ nông sản trên môi trường số, với gần 500 sản phẩm. Qua đó, các sản phẩm, hàng hóa của các hộ sản xuất nông nghiệp, hộ kinh doanh cá thể, hợp tác xã, tổ hợp tác tiếp cận các sàn thương mại điện tử, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại...
Đối với nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa, ưu điểm lớn nhất là tính linh hoạt và dễ dàng trong việc chuyển đổi số, nhưng đồng thời cũng đối mặt với rất nhiều khó khăn, như: chi phí đầu tư vào công nghệ cao, khó khăn trong việc tiếp cận các giải pháp về rủi ro và an ninh mạng, nguồn lực chuyển đổi số còn hạn chế, tổ chức quản lý quy trình nghiệp vụ, chuỗi cung ứng chưa được chuẩn hóa và khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về công nghệ số. Hạn chế khi chuyển đổi số doanh nghiệp nhỏ và vừa tại khu vực ĐBSCL còn do mô hình sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, kém hiệu quả và thiếu liên kết chuỗi giá trị. Phát triển kinh tế số và thương mại điện tử của các tỉnh ĐBSCL trong những năm qua còn những hạn chế, như: (1) Việc chuyển đổi số trong kinh tế nông nghiệp chưa hoàn toàn gắn liền với sản xuất và cuộc sống của đại đa số người dân và doanh nghiệp, nhận thức về chuyển đổi số trong nông nghiệp còn khá hạn chế, nhiều doanh nghiệp không biết phải bắt đầu từ đâu, làm như thế nào và tiếp cận ra sao; (2) Việc ứng dụng công nghệ thông tin của các doanh nghiệp, hộ sản xuất phần lớn chưa đáp ứng được nhu cầu chuyển đổi số do chưa có cơ sở dữ liệu lớn phục vụ sản xuất, thiếu minh bạch về nguồn gốc sản phẩm và thiếu kết nối, chia sẻ thông tin của các giai đoạn sản xuất, quản lý, logistics, thương mại nông sản vì quy mô không đủ lớn. Bên cạnh đó, các nông hộ chăn nuôi do quy mô nhỏ, lẻ, chưa thấy được tầm quan trọng, lợi ích của việc chuyển đổi số nên không phát sinh nhu cầu; vấn đề truy xuất nguồn gốc và vấn đề xây dựng thương hiệu chưa được các doanh nghiệp coi trọng, nhiều doanh nghiệp cũng không nhận thức được sự cần thiết và giá trị thực sự của quá trình chuyển đổi số của doanh nghiệp nên dẫn tới việc tụt hậu và bị loại khỏi cuộc đua. Ngoài ra, năng lực dẫn dắt chuyển đổi số của nhiều lãnh đạo doanh nghiệp hạn chế, không biết làm thế nào để đưa doanh nghiệp của mình trở thành một doanh nghiệp số hiệu quả; (3) Thói quen giao dịch, thanh toán tiền mặt của đa số người tiêu dùng là trở ngại lớn cho chuyển đổi số. Thói quen đó làm cho các bên giao dịch trong thương mại điện tử có tâm lý nghi ngờ lẫn nhau, làm khả năng kết nối thành công của các giao dịch luôn ở mức thấp. Hành vi kinh doanh và tiêu dùng qua nền tảng số của người dân khu vực ngoài thành thị vẫn chưa có nhiều chuyển biến, vẫn có một khoảng cách lớn giữa thành thị với các khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Chính vì những hạn chế trên nên chuyển đổi số kinh tế nông nghiệp tại ĐBSCL vẫn chưa khai thác được tiềm năng và lợi thế, chưa tranh thủ được độ mở cao của nền kinh tế với nhiều hiệp định thương mại tự do đã ký kết để thúc đẩy phát triển sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; sản xuất nông nghiệp của vùng còn manh mún, chưa có quy hoạch bảo đảm, chưa theo tín hiệu của thị trường; nhiều loại nông sản, trái cây chưa được chế biến, chủ yếu là xuất khẩu thô và tiêu thụ qua đường tiểu ngạch, chất lượng sản phẩm không ổn định, chưa đáp ứng được tiêu chuẩn cao của các thị trường xuất khẩu; liên kết trong chuỗi giá trị sản xuất và tiêu thụ sản phẩm còn yếu. Sản xuất công nghiệp của vùng vẫn thâm dụng đất đai, lao động với giá trị thấp, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế…
3. Nghị quyết số 52/NQ-TW xác định chủ động, tích cực tham gia cuộc CMCN 4.0 là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng; đồng thời, cần nhận thức đầy đủ, đúng đắn về nội hàm, bản chất của cuộc CMCN 4.0 để quyết tâm đổi mới tư duy và hành động, coi đó là giải pháp đột phá với bước đi và lộ trình phù hợp, là cơ hội để Việt Nam bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu là tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc CMCN 4.0 đem lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện các đột phá chiến lược và hiện đại hóa đất nước; phát triển mạnh mẽ kinh tế số; phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái.
Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 2-4-2022, của của Bộ Chính trị, về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định mục tiêu đến năm 2030: "Vùng đồng bằng sông Cửu Long là vùng sinh thái, văn minh và bền vững, mang đậm bản sắc văn hóa sông nước; là trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững, năng động và hiệu quả cao của quốc gia, khu vực và thế giới trên cơ sở phát triển hệ thống các trung tâm đầu mối về nông nghiệp, các hành lang kinh tế và các đô thị động lực tập trung các dịch vụ và công nghiệp đa dạng với hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế biển; kinh tế du lịch; tăng cường kết nối nội vùng, liên vùng, trong nước và quốc tế; chú trọng phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tạo dựng môi trường sống bền vững, chất lượng sống tốt cho người dân gắn với bảo tồn các tài nguyên, hệ sinh thái; duy trì và tôn tạo bản sắc văn hóa độc đáo, đa dạng của các dân tộc; bảo đảm quốc phòng và an ninh; tổ chức đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khối đại đoàn kết các dân tộc được tăng cường"; đến năm 2045: "Vùng đồng bằng sông Cửu Long là vùng phát triển toàn diện, sinh thái, văn minh và bền vững, mang đậm bản sắc văn hóa sông nước; có trình độ phát triển khá so với cả nước; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, phân bổ hợp lý và thích ứng với biến đổi khí hậu; kinh tế phát triển năng động, hiệu quả với cơ cấu phù hợp với điều kiện tự nhiên, đa dạng sinh học, văn hóa, con người; nhân dân có mức sống cao; bản sắc văn hóa độc đáo, đa dạng của các dân tộc được duy trì và tôn tạo; quốc phòng và an ninh được bảo đảm; tổ chức đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khối đại đoàn kết các dân tộc được tăng cường".
Từ quan điểm và định hướng phát triển của Đảng qua hai nghị quyết nêu trên, chuyển đổi số được xác định là động lực, giải pháp để ĐBSCL tiến nhanh, tiến xa cùng với các địa phương khác và hội nhập sâu rộng với kinh tế khu vực và quốc tế, theo đó, cần quan tâm thực hiện một số nội dung sau:
Đối với cơ quan quản lý:
Thứ nhất, cần xây dựng và hoàn thiện cơ chế về chia sẻ dữ liệu, bảo vệ dữ liệu cá nhân và bảo đảm quyền riêng tư của cá nhân, cũng như việc xử lý, giải quyết những tranh chấp, xung đột về hoạt động kinh doanh, thương mại và dân sự trên môi trường số.
Thứ hai, cần đầu tư nền tảng số dùng chung tích hợp đa chức năng và vận hành trên sự quản lý chung, thu hút được doanh nghiệp tham gia vận hành và tạo được niềm tin về cơ sở dữ liệu của Nhà nước, cá nhân và doanh nghiệp. Đồng bộ và đơn giản hóa, số hóa, điện tử hóa, minh bạch hóa thông tin để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp. Tạo điều kiện phát triển ngân hàng điện tử, đồng thời đẩy mạnh cải cách tổ chức bộ máy đáp ứng yêu cầu nền kinh tế số.
Thứ ba, hỗ trợ nâng cao năng lực số và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời chú trọng bồi dưỡng, phổ biến, trang bị kiến thức cho đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu của kinh tế số cũng như thích ứng với hội nhập. Cần có cơ chế khuyến khích thúc đẩy việc áp dụng công nghệ số ở cả bộ phận doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như cơ chế khuyến khích tài chính cho các doanh nghiệp chuyển đổi số. Thúc đẩy các hình thức thanh toán điện tử trong nền kinh tế như quét mã QR, thanh toán bằng ví điện tử qua điện thoại di động, mobile money.
Đối với cộng đồng doanh nghiệp:
Thứ nhất, tích cực chuẩn bị để nắm bắt cơ hội, cũng như bảo đảm tính cạnh tranh quốc tế trong nền kinh tế số toàn cầu, đẩy mạnh đầu tư cho hạ tầng công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực khi tham gia vào nền kinh tế số.
Thứ hai, phát triển kỹ năng mới cho đội ngũ nhân viên như tăng cường năng lực tiếp cận, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi. Nâng cao nhận thức về phát triển nền kinh tế số cho nguồn nhân lực, phù hợp với chiến lược chung của doanh nghiệp và hành động về kinh tế số. Chủ động nghiên cứu, tiếp thu những mô hình quản lý mới cũng như ý tưởng sản xuất và kinh doanh mới, đồng thời tạo điều kiện và cơ hội cho những sáng kiến mới được ra đời và phát triển phù hợp với nền tảng số.
Thứ ba, chủ động tích hợp công nghệ số hóa, thúc đẩy phát triển những giải pháp sản xuất và kinh doanh dựa trên số hóa; chuyển đổi mô hình kinh doanh, sử dụng hiệu quả chuỗi cung ứng thông minh để chuyển đổi mô hình quản trị trên nền tảng số phù hợp với chiến lược phát triển chung của doanh nghiệp. Từ đó làm nền tảng phát triển sản phẩm nội dung số, truyền thông số, marketing số, phát triển công nghiệp sáng tạo, hệ sinh thái nội dung số đa dạng, hấp dẫn.
Đối với các cơ sở đào tạo:
Thứ nhất, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng để đào tạo lại lực lượng lao động bắt kịp với xu hướng công nghệ số; cập nhật, bổ sung các chương trình đào tạo về công nghệ số, nền tảng số, từ mã hóa đến tư duy thiết kế và các kỹ năng số cần thiết cho người lao động ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Thứ hai, đẩy mạnh liên kết đào tạo và thực hành giữa trường với khu vực doanh nghiệp trong ứng dụng công nghệ số; xây dựng chính sách kết nối cộng đồng khoa học - công nghệ trong nước với nước ngoài. Triển khai các chương trình đào tạo, đào tạo lại kỹ năng lãnh đạo, quản lý chuyển đổi số cho người đứng đầu như giám đốc điều hành và quản lý cấp trung của doanh nghiệp.
Thứ ba, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế số. Tập trung phát triển, thu hút các chuyên gia về công nghệ số, các doanh nhân số, doanh nhân toàn cầu. Chương trình đào tạo nhân lực số cần chú trọng đào tạo về công nghệ thông tin, đặc biệt là cập nhật giáo trình đào tạo công nghệ thông tin gắn với các xu thế công nghệ mới như internet kết nối vạn vật, trí tuệ nhân tạo, công nghệ robot, tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên tiếp cận môi trường số để trang bị các kỹ năng số phù hợp./.
--------------------------------------
(1). Xem: https://mof.gov.vn/webcenter/portal/thtk/pages_r/l/chi-tiet-tin-tin-hoc-va-thong-ke?dDocName=MOFUCM258728
(2), (3), (4). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, t.I, tr. 120, 221, 123
(5). Nghị quyết số 120/NQ-CP, ngày 17-11-2017, của Chính phủ,về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu
(6). Tổng cục Thống kê, 2021
(7). Cục Tin học hoá, Bộ Thông tin và Truyền thông, 2021. Công bố kết quả xếp hạng chuyển đổi số cấp bộ, cấp tỉnh năm 2020
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị trực tuyến toàn quốc về chuyển đổi số quốc gia  (13/07/2023)
Thực trạng và giải pháp tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng gắn liền với công tác chuyển đổi số trong giai đoạn hiện nay  (08/07/2023)
Truyền thông chính trị trong bối cảnh chuyển đổi số ở nước ta hiện nay  (26/06/2023)
Truyền thông chính trị trong bối cảnh chuyển đổi số ở nước ta hiện nay  (26/06/2023)
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
-
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay