Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

PGS, TS VŨ TRỌNG LÂM
Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật
09:26, ngày 19-10-2024

TCCS - Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử đặc biệt, có giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn, hàm chứa nhiều nội dung sâu sắc về xây dựng Đảng cầm quyền, đặc biệt là vấn đề thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Trải qua 55 năm, di huấn của Người về vấn đề này vẫn còn nguyên giá trị lịch sử và thời đại.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm làm việc với các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị_Ảnh: TTXVN

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”(1)

Có thể thấy, điều đầu tiên trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những lời căn dặn về xây dựng Đảng cầm quyền: “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG”, Người khẳng định: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”(2), sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta. Người chỉ rõ Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là một nguyên tắc thể hiện vai trò cầm quyền của Đảng. Sở dĩ Đảng có vinh dự giữ trọng trách to lớn đó, là bởi mục đích của Đảng không có gì khác là “lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”(3); vì vậy, “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”(4). Để ngăn chặn những nguy cơ tha hóa, biến chất và thủ tiêu tư tưởng “làm quan phát tài” trong Đảng, trong các bản Di chúc mà Người viết từ năm 1965 đến trước khi qua đời đều nêu rõ: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”(5). Công tác chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ chiến lược, là công việc thường xuyên để làm cho Đảng có đủ năng lực, trí tuệ và đạo đức cách mạng, nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng, “làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(6). Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ này, trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi. 

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết tinh, đúc kết cao nhất hệ thống quan điểm, tư tưởng của Người về vấn đề dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng. Người đặc biệt chú trọng và xem việc thực hành, phát huy dân chủ trong Đảng là một trong những nguyên tắc cốt lõi của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng có nội lực vững vàng, có chỗ dựa vững chắc là khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chỉ khi thực hành dân chủ, Đảng mới thực sự xứng đáng là người đại diện cho giai cấp và dân tộc, nhân dân mới thành thật đoàn kết xung quanh Đảng và đi theo sự lãnh đạo của Đảng. Đó cũng là nguyên tắc chi phối mối quan hệ giữa “ý Đảng” và “lòng dân”. Chính vì lẽ đó, Người luôn tỏ rõ sự chân thành, thẳng thắn, cương trực và giàu lòng nhân hậu, bác ái, trọng sự đồng thuận và đoàn kết. Đoàn kết - Dân chủ - Đồng thuận để phát triển, đó là cả một triết lý trong hành động cách mạng, trong thực hành dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực hành dân chủ là một trong 5 thực hành lớn, tiêu biểu trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là: Thực hành lý luận trong thực tiễn; thực hành dân chủ; thực hành dân vận; thực hành đoàn kết đại đoàn kết; thực hành đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, suốt đời chống chủ nghĩa cá nhân như chống giặc nội xâm.

Trong lôgíc của mọi thực hành, nhất là thực hành dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán một tư tưởng lớn, nằm ở một chữ “DÂN”: Dân chủ - Dân vận - Dân tộc - Đại đoàn kết toàn dân tộc, để suốt đời vì dân, gắn bó máu thịt với nhân dân(7). Tôn trọng, tin cậy và yêu thương con người là điều căn bản, sâu xa làm nên sự thành công trong thực hành dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thông qua Di chúc, tư tưởng của Người về việc thực hành và phát huy dân chủ trong Đảng được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:

- Về xây dựng tổ chức, bộ máy của Đảng đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong mỗi giai đoạn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, việc thực hành dân chủ “để cho mọi người có gì nói hết, cái đúng thì nghe, cái không đúng thì giải thích, sửa chữa, ở những cơ quan đó mọi người đều hoạt bát mà bệnh “thì thầm, thì thào” cũng hết... Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”(8).

- Về xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng để làm tiền đề cho việc thực hành dân chủ trong Đảng, trong di huấn để lại cho các thế hệ mai sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình... Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(9).

- Về công tác vận động quần chúng nhân dân, các tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên phải làm tốt công tác vận động, giúp đỡ nhân dân, tôn trọng quyền lợi của nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của Đảng và Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân phải tin dân, biết dựa vào dân, phát huy mọi năng lực tiềm tàng trong dân; “giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”(10).

- Về vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng, Người đặt ra yêu cầu là phải tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền làm chủ. Dân chủ trong quan niệm của Người không chỉ được thực hành trong lĩnh vực chính trị, mà trong tất cả các lĩnh vực khác, như: phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng pháp luật,... Ở mỗi lĩnh vực đó đều có trách nhiệm của các tổ chức đảng trong việc thực hành, phát huy dân chủ.

Tư tưởng về dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng và hệ thống chính trị là một trong những tư tưởng rất quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó cũng chính là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho người dân thực hiện quyền làm chủ, đã được thể hiện độc đáo trong các quy định của bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta - Hiến pháp năm 1946 - trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm quan tâm đến vấn đề con người và quyền con người trong thực hành dân chủ. Theo Người, con người là động lực và mục tiêu của chế độ dân chủ. Quyền con người trong chế độ dân chủ trước hết phải mang nội dung tự do, ấm no, hạnh phúc, cơm ăn, áo mặc, học hành. Ngay từ những năm đầu đất nước giành độc lập, Người đã xác định: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có học hành”(11).

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, dân chỉ biết đến tự do, dân chủ là khi không chỉ được ăn no, mặc ấm mà còn được học hành. Khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, hơn 90% dân số còn mù chữ, thất học(12), vì thế, Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch đã ban hành Sắc lệnh số 17, ngày 8-9-1945, về việc đặt ra phong trào bình dân học vụ để giúp toàn dân thanh toán nạn mù chữ. Giặc dốt cũng nguy hiểm như giặc đói và giặc ngoại xâm. Ngay sau phiên họp đầu tiên của Chính phủ (ngày 3-9-1945), Người đã có thông báo về việc tiếp chuyện đại biểu các đoàn thể rằng: “Từ năm nay, tôi sẽ rất vui lòng tiếp chuyện các đại biểu của các đoàn thể”(13). Đó thực sự là Chính phủ dân chủ, trọng dân, tin dân và vì dân. Đó cũng là nội dung thiết thực của thực hành dân chủ mà Người đã rất mẫu mực thực hiện từ ngày đầu thành lập Chính phủ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa thời sự.

Nhờ có tư tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết dân chủ với dân vận và đại đoàn kết toàn dân tộc mà mọi công việc của đất nước đều được giải quyết bằng sức dân, hướng tới phục vụ lợi ích của dân và cho dân. Và đây chính là ngọn nguồn để Người khẳng định “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”(14).

Di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định thực hành dân chủ trong Đảng là “cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”(15)

Trong Di chúc để lại cho các thế hệ mai sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến những vấn đề căn cốt, cơ bản và trọng yếu của cách mạng Việt Nam. Riêng về vấn đề thực hành dân chủ, Người nhận định, đây là “cách tốt nhất” nhằm xây dựng và gia tăng sức mạnh nội lực cũng như sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng. Người căn dặn: “Trong Đảng, thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”(16). Kết hợp điều đó với những huấn thị trong suốt cuộc đời hoạt động của Người về vấn đề dân chủ có thể thấy, thực hành dân chủ trong Đảng chính là thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ. Người chỉ rõ: “Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: có Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương”(17); “Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung. Từ hội đồng nhân dân và ủy ban kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Thế là vừa dân chủ vừa tập trung”(18); “Từ tỉnh, huyện đến chi bộ, phải làm đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách. Nội bộ phải thật đoàn kết. Mọi việc đều bàn bạc một cách dân chủ và tập thể(19). Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn”; tuy nhiên, dân chủ phải gắn liền với tập trung, và theo đó, phải thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Người nhấn mạnh: “Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau... Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung(20). Nhận thức đúng và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, thống nhất cả về tư tưởng và hành động, để “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”(21).

Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lý giải sâu sắc bản chất của tập trung dân chủ và coi đó là nguyên tắc quan trọng trong xây dựng Đảng; đồng thời nhấn mạnh, tập trung và dân chủ là sự thống nhất biện chứng giữa hai thành tố, luôn luôn đi đôi với nhau; dân chủ phải đi đến tập trung và tập trung phải trên cơ sở dân chủ; tập thể lãnh đạo phải đi đôi với phân công cá nhân phụ trách. Tập trung dân chủ bao hàm tập trungdân chủ. Hai thành tố đó không mâu thuẫn với nhau mà luôn thống nhất với nhau và tác động, bổ sung cho nhau. Tập trung trên cơ sở dân chủ; dân chủ có sự lãnh đạo, được sự bảo đảm của tập trung. Có giữ vững tập trung mới có thể thực hiện và mở rộng dân chủ. Phát triển và mở rộng dân chủ luôn gắn liền với giữ vững và tăng cường tập trung; trên cơ sở đó, dân chủ càng phát triển thì tập trung càng vững chắc. Theo đó, mọi công việc trong Đảng đều phải được bàn bạc dân chủ. Mọi đảng viên có quyền được nêu ý kiến của mình, nhưng khi quyết định thì thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, toàn Đảng phải phục tùng Ban Chấp hành Trung ương và cao nhất là đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ không đối lập với tập trung mà chỉ đối lập với tình trạng độc đoán, chuyên quyền. Tập trung không đối lập với dân chủ mà chỉ đối lập với tình trạng tản mát, tùy tiện, vô tổ chức, vô kỷ luật. Dân chủ là cơ sở của tập trung và tập trung chỉ có thể được thực hiện một cách hiệu quả trên cơ sở phát huy thật sự dân chủ trong Đảng. Tập trung trên cơ sở dân chủ hoàn toàn khác với tập trung quan liêu, độc đoán, chuyên quyền. Dân chủ có sự bảo đảm của tập trung cũng hoàn toàn khác về bản chất với dân chủ hình thức, dân chủ vô chính phủ, tự do vô tổ chức, vô kỷ luật. Nói cách khác, tập trung và dân chủ là hai mặt thống nhất biện chứng, không thể tách rời. Tập trung hỗ trợ, bảo đảm cho dân chủ được thực hiện trong khuôn khổ, có sự kiểm soát; dân chủ giúp cho tập trung được thực hiện linh hoạt, đạt hiệu quả cao trong lãnh đạo và quản lý. Trên phương diện lãnh đạo, quản lý, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cần thực hành tập trung dân chủ gắn liền với thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Người khẳng định: Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung. Như thế là, vừa đề cao trách nhiệm của cá nhân, vừa phát huy sức mạnh của trí tuệ tập thể. Cần phải bảo đảm tối đa dân chủ trong thảo luận, tranh luận để tìm tòi chân lý. Khi chân lý đã được tìm thấy thì quyền tự do tư tưởng trở thành quyền tự do phục tùng chân lý.

Thực tiễn lịch sử về sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu là bài học đau xót về việc buông lỏng, xa rời, thực hiện không đúng nguyên tắc tập trung dân chủ của đảng cộng sản, dẫn đến mất dân chủ trong đảng. Theo đó, một số nước xã hội chủ nghĩa nghiêng về tập trung quan liêu, thống nhất cứng nhắc, dẫn đến vi phạm dân chủ trong đảng, xuất hiện hàng loạt các sai lầm: gia trưởng, độc đoán, sùng bái cá nhân. Một số nước xã hội chủ nghĩa khác lại hạ thấp tính tập trung, thống nhất, dẫn đến hỗn loạn, vô chính phủ. Những sai lầm trong nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đã làm tổn hại nghiêm trọng đến vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản, cản trở sự phát triển và là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự khủng hoảng trầm trọng về chính trị, kinh tế - xã hội, cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa của các nước đó.

Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay

Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng hơn 94 năm qua, Đảng ta luôn kiên trì quan điểm phải thực hành dân chủ, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, trong mọi mặt của đời sống chính trị đất nước. Đảng coi đây là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, chỉ đạo toàn bộ việc xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, đồng thời phát huy dân chủ trong Đảng. Kiên trì thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng xuất phát từ bản chất của Đảng, từ yêu cầu, nhiệm vụ lịch sử của Đảng và từ kinh nghiệm của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế. Đảng ta nhiều lần khẳng định: “Sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”(23).

Các đại biểu biểu quyết tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng_Ảnh: TTXVN

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Điều lệ Đảng được Đại hội lần thứ XI thông qua (năm 2011) xác định: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”(24). Điều 9 Điều lệ Đảng chỉ rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ”(25).

Nhờ xác định đúng đắn và thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, đặc biệt là nguyên tắc thực hành dân chủ trong Đảng theo tư tưởng và Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với việc thực hiện nghị quyết, kết luận Hội nghị Trung ương 4 các khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trong thời gian qua, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả quan trọngtoàn diện trên tất cả các mặt.

Yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của nước ta hiện nay là rất to lớn, nặng nề, đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Muốn vậy, phải nhận diện cho đúng và kịp thời khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trong đó có việc thực hành dân chủ, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, như Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra: “Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm”(26).

Trong giai đoạn phát triển mới của cách mạng Việt Nam, Đảng nêu cao sự thống nhất ý chí và hành động trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thể hiện sự thấm nhuần tư tưởng và di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nguyên tắc thực hành dân chủ trong mọi hoạt động của Đảng. Để Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh, ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ mới, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập trung dân chủ trong mọi hoạt động của Đảng trở nên hết sức quan trọng, cấp thiết, là vấn đề then chốt, có ý nghĩa quyết định đến uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng, quyết định sự thành, bại của sự nghiệp cách mạng.

Có thể nói, thực hành dân chủ, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay là một giải pháp quan trọng ở tầm chiến lược để thúc đẩy công tác xây dựng Đảng gắn liền với chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Phải làm cho quá trình dân chủ hóa gắn liền với pháp chế hóa, siết chặt trật tự, kỷ cương xã hội để xây dựng chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đó là một quá trình lâu dài của đổi mới sáng tạo, là trường học thực tiễn để rèn luyện ý thức dân chủ, văn hóa dân chủ và tạo ra bước phát triển mới, sự trưởng thành thực sự về ý thức và năng lực dân chủ của Đảng, của toàn dân ta trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.

Là lực lượng lãnh đạo, dẫn đường cho dân tộc, Đảng phải nêu gương thực hành dân chủ và thực hiện kỷ luật, kỷ cương. Đó là tiền đề để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội và giữ nghiêm kỷ cương, phép nước. Theo đó, cần đẩy mạnh thực hành dân chủ, tích cực phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý nghiêm minh những cá nhân, tổ chức vi phạm dân chủ, coi thường kỷ cương, phép nước.

Trong thời gian tới, để tăng cường hiệu quả thực hành dân chủ, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng vững mạnh, toàn diện, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, lập trường, bản lĩnh chính trị, trí tuệ của mỗi cán bộ, đảng viên về thực hành dân chủ và tập trung dân chủ. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, quán triệt, thống nhất trong toàn Đảng và cho mỗi đảng viên nhận thức đúng đắn về nội dung thực hành dân chủ, nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Tăng cường làm rõ nội hàm về thực hành dân chủ, nguyên tắc tập trung dân chủ gắn với từng lĩnh vực, công việc, hoạt động cụ thể của từng cấp, từng ngành, từng địa phương, đơn vị và công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị ở nước ta.

Nguyên tắc tập trung dân chủ và vấn đề dân chủ là một trong những trọng tâm mà các thế lực thù địch, phản động luôn ra sức tìm cách xuyên tạc, lợi dụng để chống phá nhằm thực hiện âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Do đó, cần tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phòng, chống, phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng và các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ của các thế lực thù địch để chống phá cách mạng Việt Nam. Muốn vậy, phải nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm nền tảng tư tưởng của Đảng được bảo vệ vững chắc.

Thứ hai, hoàn thiện và thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, các quy định của Đảng về dân chủ và phát huy dân chủ ở cơ sở, bảo đảm phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân trong xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong xã hội. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, quy chế hóa việc thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong từng lĩnh vực, từng mặt công tác xây dựng Đảng. Cần cụ thể hóa các nội dung cơ bản của nguyên tắc này đã được nêu trong Điều lệ Đảng bằng những văn bản hướng dẫn cụ thể để các tổ chức đảng và đảng viên thực hiện.

Trong thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, đảng viên phải có dũng khí và bản lĩnh để đưa ra ý kiến với tinh thần xây dựng, ý thức tự phê bình và phê bình thẳng thắn, chân thành, trao đổi dân chủ, để đi đến thống nhất trong nhận thức và hành động trên cơ sở tuân thủ quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, không nên tuyệt đối hóa hay đối lập tập trung với dân chủ. Phải mở rộng dân chủ mới tạo ra sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ chính trị; dân chủ phải có tập trung và phải gắn liền với kỷ luật, kỷ cương mới đem lại hiệu quả thiết thực và tạo ra động lực để thúc đẩy sự phát triển xã hội; dân chủ càng mở rộng, thì tập trung cũng càng phải cao.

Thứ ba, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng phải gắn với yêu cầu tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách theo đúng quy định của Điều lệ Đảng và các nghị quyết của Đảng đã ban hành. Chỉ có tập thể lãnh đạo mới khơi dậy được tinh thần dân chủ trong Đảng, mới huy động được toàn bộ trí tuệ đội tiên phong. Cá nhân phải gắn liền và ở trong tập thể, luôn có ý thức chịu trách nhiệm trước Đảng và trước nhân dân; tránh tình trạng “phớt lờ” tổ chức, vi phạm kỷ luật, kỷ cương của Đảng và lợi dụng nguyên tắc tập trung dân chủ để lấn át tập thể, chuyên quyền, độc đoán, đi ngược lại lợi ích chung của tập thể, của nhân dân.

Mặt khác, cần tiếp tục đề cao, phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong việc tổ chức thực hiện dân chủ và áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Làm rõ và tăng cường trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong thực hành dân chủ và  thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình.

Thứ tư, thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Dân chủ trong sinh hoạt của tổ chức đảng phải tránh được tính hình thức hoặc tiến hành qua loa, chiếu lệ. Thực hiện đúng đắn và đầy đủ quy định mọi đảng viên chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết của Đảng, phát ngôn và hành động đúng tinh thần trách nhiệm của người đảng viên. Trong điều kiện mới, nhiều vấn đề quan trọng, mới và phức tạp, thậm chí chưa có tiền lệ đang đặt ra, đòi hỏi phải xử lý. Mọi quyết định chủ quan, độc đoán, duy ý chí đều không tránh khỏi sai lầm, đặc biệt là trong những bước ngoặt của cách mạng. Để đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương quan trọng đều phải được bàn bạc và quyết định tập thể, tuân thủ nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, nhưng cho phép bảo lưu ý kiến. Do vậy, trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, cần định kỳ xem xét lại ý kiến bảo lưu và coi đây là việc làm thường xuyên để bảo đảm tính đúng đắn của quá trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; từ đó, giảm thiểu những sai sót, lệch lạc, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động của tổ chức đảng và đảng viên.

Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Xử lý nghiêm, kịp thời những tổ chức đảng và đảng viên không chấp hành nghiêm các quy định, quy chế về thực hành dân chủ hoặc vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, vi phạm Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là các tổ chức đảng và người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, bộ, ngành, địa phương…

Thực hành dân chủ và tập trung dân chủ đã trở thành một nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của Đảng và hệ thống chính trị. Vì vậy, sự tồn tại và phát triển của Đảng và cả hệ thống chính trị gắn bó mật thiết, hữu cơ với việc tuân thủ, củng cố, phát triển nguyên tắc đó. Điều đó cũng có nghĩa, nếu xa rời hoặc buông lỏng nguyên tắc ấy sẽ làm cho Đảng mất dần sinh khí, sức mạnh, dẫn tới tha hóa, biến chất, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Do vậy, cần tuân thủ, bảo đảm thực hành dân chủ rộng rãi và nguyên tắc tập trung dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta; kiên quyết, kiên trì đấu tranh không khoan nhượng chống mọi biểu hiện xa rời, buông lỏng, xem nhẹ nguyên tắc tập trung dân chủ là biểu hiện rõ ràng nhất của tính đảng, phẩm chất đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên trong điều kiện hiện nay.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng là di huấn quý báu, là ngọn đèn pha soi đường, trở thành nền tảng tư tưởng, quan điểm chỉ đạo cho công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh hiện nay./.

----------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.15, tr.325
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.622
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.5
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.289
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.616
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.289
(7) Xem Hoàng Chí Bảo: Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.284
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.611 - 612
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.326
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.175
(12) Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.7
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.9
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.325
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.622
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.622
(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.275
(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.263 - 264
(19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.438
(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.620
(21) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.17
(22) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.37, tr.830
(23) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.5
(24) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.16 - 17
(25) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.II, tr.225.