TCCS - Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được xuất bản gồm 29 bài viết tiêu biểu thể hiện tính khoa học, tầm cao và chiều sâu lý luận, bàn về những vấn đề lý luận và thực tiễn thiết thực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Năm quan điểm về phát triển trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ được phân tích trong sách có mối liên hệ khăng khít và bổ sung cho nhau. Do vậy, các quan điểm này cần được nhận thức, quán triệt đồng bộ cả về lý luận lẫn thực tiễn.

Về quan điểm phát triển trong xây dựng chủ nghĩa xã hội

Các bài viết in trong cuốn sách, nhất là bài “Vng bước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc”, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng đã chỉ rõ các quan điểm phát triển trong xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta và đã được Đại hội XIII của Đảng thông qua, gồm các quan điểm:

Thứ nhất, “tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(1). Đây là quan điểm đầu tiên quan trọng nhất bao gồm “năm kiên định”.

Kiên định thứ nhất là kiên định và vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định ở đây là vững vàng, không dao động, không thay đổi lập trường, không nhụt chí, không nản lòng, vững tin có căn cứ, có cơ sở vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều này khẳng định, kiên định không phải là bảo thủ, trì trệ, cố chấp mà trên cơ sở hiểu biết đúng đắn về bản chất khoa học, cách mạng, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng kiên định mà không biết vận dụng, phát triển sáng tạo sẽ trở thành bảo thủ, cố chấp, trì trệ. Ngược lại, vận dụng, phát triển mà không trên cơ sở kiên định sẽ dễ trở thành xét lại, cơ hội. Cả hai xu hướng này đều là sai và sẽ phải trả giá đắt.

Kiên định thứ hai là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, như chính đồng chí Tổng Bí thứ đã khẳng định: “Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”(2). Thực tiễn lịch sử thế giới đương đại đã “chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của chủ nghĩa tư bản”(3). Chính vì vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Kiên định thứ ba là kiên định đường lối đổi mới của Đảng. Thực tiễn gần 38 năm đổi mới đã chứng tỏ “đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”(4).

Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai chúc tết công nhân môi trường tại thành phố Đà Lạt_Ảnh: TTXVN

Kiên định thứ tư là kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng. Bởi lẽ, thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng tỏ “sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”(5). Do vậy, chúng ta phải đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng phải kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ.

Kiên định thứ năm là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Có thể nói, “năm kiên định” này liên hệ, bổ sung, tác động lẫn nhau, cùng nhau tạo nên quan điểm mang tính nguyên tắc mà theo đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động.

Thứ hai, “chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”(6). Quan điểm này yêu cầu đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; xác định các nhiệm vụ một cách toàn diện nhưng không dàn đều, bình quân, mà có trọng tâm, trọng điểm. Mục tiêu của chúng ta là phát triển nhanh nhưng phải bền vững, do vậy phải có bước đi, lộ trình, giải pháp cho từng lĩnh vực phù hợp thực tiễn.

Thứ ba, “động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”(7). Đây là quan điểm phát triển hết sức đúng đắn, bởi lẽ Đảng ta xuất phát từ vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nếu chúng ta khơi dậy được sức mạnh con người Việt Nam với tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và sức mạnh văn hóa Việt Nam kết hợp với sức mạnh thời đại, chúng ta sẽ thực hiện được chiến lược phát triển nhanh và bền vững. Bởi lẽ, phát triển dựa vào tài nguyên thiên nhiên có giới hạn, nhưng phát huy nguồn lực sáng tạo con người, nguồn lực văn hóa, tinh thần sẽ tạo ra nguồn lực phát triển vô hạn.

Thứ tư, “nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc là tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”(8). Quan điểm này xuất phát từ thực tế sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, “chính trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm để ngày càng xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân. Thực tế gần một thế kỷ qua cho thấy, ở Việt Nam không có một lực lượng chính trị nào khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh quang, giành được hết thắng lợi này đến thành công khác”(9). Vai trò, vị thế, tầm quan trọng của Đảng là kết quả rèn luyện, phấn đấu gian khổ của từng đảng viên và toàn Đảng. Do vậy, phải tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Thứ năm, “trong nhiệm kỳ 2021 - 2025 và những năm tiếp theo, mục tiêu phát triển tổng quát của chúng ta là: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(10). Quan điểm này xác định đích đến của nước ta đến giữa thế kỷ XXI, để chúng ta phấn đấu, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng.

Năm quan điểm này thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau, cùng nhau tạo ra hệ quan điểm phát triển trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do vậy, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần quán triệt đồng bộ các quan điểm này.

Về quan điểm thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ

Các bài viết in trong cuốn sách, đặc biệt là bài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh một số quan điểm thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội:

Thứ nhất, thực hiện “Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển”(11) trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể, Nhà nước phải “thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”(12). Phương thức phân phối này kết hợp được các hình thức phân phối theo cơ chế thị trường, theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác. Đồng thời, kết hợp phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Phân phối theo cơ chế thị trường sẽ tạo động lực cho phát triển kinh tế, còn theo hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội sẽ tạo ra sự công bằng xã hội. Thực hiện phương thức phân phối này sẽ góp phần củng cố những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội mà đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”(13). Trên cơ sở này, chúng ta mới thực hiện được định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ.

Chăm sóc trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Thứ hai, quan điểm “gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”(14). Đây vừa là quan điểm, vừa là “một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam”(15). Có nghĩa là, để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần phải thực hiện tốt quan điểm này. Chính vì vậy, ngay từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ “cần thể hiện đầy đủ trên thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”(16). Đồng thời, quan điểm “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện cả ở khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”(17) được Đảng ta quán triệt trong suốt quá trình đổi mới. Quan điểm gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển được đồng chí Tổng Bí thư giải thích rất rõ ràng trong bài viết của mình: “Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần”(18). Đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu “mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn”(19). Quan điểm này được đồng chí Tổng Bí thư coi “là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(20).

Thứ ba, quan điểm “xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(21). Do vậy, văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội mà còn là sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tất nhiên, đó là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại”(22). Nền văn hóa ấy tham gia phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Nền văn hóa ấy góp phần xây dựng, phát triển con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới.

Thứ tư, thực hiện quan điểm “xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người”(23). Quan điểm này góp phần xây dựng xã hội đồng thuận thay vì đối lập hay đối kháng xã hội. Sự đồng thuận xã hội được xây dựng trên cơ sở hài hòa lợi ích cá nhân - tập thể - xã hội và “mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(24). Quan điểm này hoàn toàn thống nhất với mục tiêu và cũng là đặc trưng thứ nhất của chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta xây dựng. Đó là mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thứ năm, khẳng định và quán triệt quan điểm “sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”(25). Từ tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam, kết hợp với nghiên cứu lý luận, Tổng Bí thư khẳng định và nhấn mạnh: “Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”(26), trong đó có bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển.

Thực hiện tốt các quan điểm trên, chúng ta mới thực hiện được trên thực tiễn định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều cần lưu ý là, các quan điểm phát triển trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và các quan điểm thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ có mối liên hệ khăng khít với nhau. Bởi lẽ, phát triển trong xây dựng chủ nghĩa xã hội phải bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa phải thành công trong xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội. Do vậy, các quan điểm này phải được nhận thức, quán triệt đồng bộ cả về lý luận và trên thực tiễn./.

----------------------------------

(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (14), (15), (18), (19), (20), (21), (22), (23), (24), (25), (26): Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 51, 22, 20, 33, 29, 51-52, 52, 52, 208, 52-53, 26, 26, 21, 27, 26, 27, 27, 27, 27, 27, 28, 28, 29, 220
(16): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986, tr. 86
(17): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 113