Tỉnh Long An nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở đáp ứng yêu cầu mới
TCCS - Để đạt mục tiêu phát triển nhanh và bền vững theo Nghị quyết Đại hội X của Đảng bộ tỉnh Long An (nhiệm kỳ 2015 - 2020), Đảng bộ tỉnh xác định một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng cần tập trung thực hiện, đó là: xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh vừa hồng, vừa chuyên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, trong đó, đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị cơ sở - lực lượng trực tiếp lãnh đạo, tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước ở địa phương.
Nhiều kết quả đáng ghi nhận
Những nhiệm kỳ qua, Tỉnh ủy Long An luôn chú trọng xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án, kế hoạch về công tác cán bộ theo tinh thần Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 18-6-1997, của Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 02-02-2008, của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”. Bên cạnh đó, tỉnh đã xây dựng, thực hiện: Chương trình đào tạo, phát huy nguồn nhân lực của tỉnh giai đoạn 2001 - 2010; Đề án công tác cán bộ của tỉnh giai đoạn 2011 - 2020 và những năm tiếp theo,... nên đã từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị tỉnh nói chung, cấp cơ sở nói riêng theo hướng chuẩn hóa, đủ bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Với chủ trương tích cực đổi mới, tỉnh đã tập trung đổi mới về phương pháp, quy trình, thực hiện đột phá trong một số khâu công tác cán bộ theo hướng chặt chẽ, đồng bộ, thực chất, bảo đảm tính kế thừa và chiến lược lâu dài. Trong đó, những điểm được chú trọng triển khai nghiêm túc, chặt chẽ là:
1- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt ở cơ sở được xác định là khâu quan trọng. Tỉnh luôn quan tâm đầu tư, đẩy mạnh theo hướng chuẩn hóa chức danh về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý nhà nước. Thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, tác nghiệp đối với các chức danh: Bí thư đảng ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân, chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc và trưởng các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã; cập nhật, bồi dưỡng kiến thức về quốc phòng, an ninh, công tác dân vận, dân tộc, tôn giáo, thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở... Quan tâm lựa chọn, cử cán bộ tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo chương trình, đề án của tỉnh và các lớp đại học do Trường Chính trị tỉnh phối hợp với các đơn vị tổ chức. Đồng thời, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ được tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ, nâng ngạch, chuyển ngạch phù hợp với trình độ, vị trí công tác. Bởi vậy, trong giai đoạn 2016 - 2018, toàn tỉnh đã bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng công tác, tác nghiệp theo chức danh cho 1.034 lượt cán bộ. Hiện nay, hầu hết cán bộ chủ chốt ở xã, phường, thị trấn trong tỉnh cơ bản đạt chuẩn về trình độ chuyên môn và lý luận chính trị. Cụ thể, tỷ lệ cán bộ có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên chiếm 91,2%; trong đó, trên đại học chiếm 0,71%, cao đẳng, đại học chiếm khoảng 70% (năm 2000 tỷ lệ này là 12,76%); trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên chiếm 83,64% (năm 2000 là 34,48%), trong đó cao cấp và tương đương chiếm 11,25%. Ngoài ra, các chế độ, chính sách về sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ được vận dụng, thực hiện đầy đủ, kịp thời, phù hợp từng thời điểm và tình hình thực tế của tỉnh... Qua đó góp phần khuyến khích, tạo động lực, động viên cán bộ an tâm công tác, phát huy năng lực, sở trường, trí tuệ, cống hiến và trưởng thành.
2- Công tác nhận xét, đánh giá cán bộ được thực hiện toàn diện trên các mặt tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong, lề lối làm việc gắn với kết quả hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, lĩnh vực được phân công phụ trách; thực hiện theo định kỳ và thường xuyên, trước khi quy hoạch, giới thiệu ứng cử, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển cán bộ. Đồng thời, phát huy trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị và mở rộng dân chủ, bảo đảm khách quan trong đánh giá cán bộ. Đối với công tác tạo nguồn, quy hoạch cán bộ chủ chốt, luôn chú trọng về tiêu chuẩn chức danh, số lượng, cơ cấu về tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ và độ tuổi, bảo đảm thực hiện phương châm “mở” và “động”, định kỳ rà soát, giới thiệu bổ sung nhân tố mới đủ điều kiện vào quy hoạch; đồng thời, đưa ra khỏi quy hoạch những người không bảo đảm tiêu chuẩn.
3- Về công tác tổ chức cán bộ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đặc biệt chú trọng lãnh đạo, thực hiện chặt chẽ công tác chính trị tư tưởng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ chủ chốt từ tỉnh đến cơ sở có lập trường tư tưởng, chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở địa phương và xây dựng hệ thống chính trị các cấp trong sạch, vững mạnh.
Đạt được những kết quả trên là do công tác lãnh đạo, chỉ đạo và cụ thể hóa, tổ chức thực hiện các văn bản của Trung ương về công tác cán bộ được bảo đảm nghiêm túc, phù hợp điều kiện của địa phương, cơ quan, đơn vị. Song song đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy kịp thời chỉ đạo, thực hiện sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều quy định, quy chế, kết luận để chấn chỉnh, xử lý kịp thời những vướng mắc, sơ hở trong công tác cán bộ. Vì thế, công tác cán bộ của tỉnh từng bước đi vào nền nếp, cơ bản bám sát được nhiệm vụ chính trị, đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Điểm đáng ghi nhận nữa là, công tác đánh giá cán bộ từng bước được đổi mới, quan tâm đến chất lượng, không chạy theo thành tích; quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng mở rộng dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch, chính xác, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong tỉnh. Các cấp ủy, tổ chức đảng có sự quan tâm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình, Đề án, nên hầu hết các chỉ tiêu của Chương trình, Đề án được thực hiện cơ bản bảo đảm tiến độ, có chỉ tiêu đạt, vượt.
Một số hạn chế cần khắc phục và bài học kinh nghiệm từ thực tiễn
Bên cạnh những kết quả đạt được, Ban Thường vụ Tỉnh ủy thẳng thắng nhìn nhận rằng, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở trong tỉnh vẫn còn một số hạn chế, như hệ thống chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã thiếu đồng bộ, bất cập, chưa thu hút cán bộ trẻ và khuyến khích cán bộ có năng lực về công tác cơ sở; một số các xã, phường, thị trấn thiếu cán bộ nguồn, khó khăn trong công tác quy hoạch cán bộ; cơ cấu về trình độ, năng lực, độ tuổi... của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã chưa đồng bộ; một số cán bộ thiếu chuẩn, năng lực hạn chế, nhưng do chưa có chính sách hỗ trợ nghỉ việc hợp lý nên không bố trí, bổ nhiệm được cán bộ trẻ thay thế.
Xuất phát từ thực tiễn, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Long An rút ra một số bài học kinh nghiệm:
1- Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tuyên truyền, quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết Đại hội X của Đảng bộ tỉnh và các nghị quyết của Trung ương liên quan đến công tác xây dựng Đảng có vai trò quan trọng và tác động đến nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong việc nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
2- Xây dựng tổ chức cơ sở đảng phải kết hợp chặt chẽ với xây dựng chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở vững mạnh, gắn bó với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là bí thư cấp ủy; tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.
3- Ý thức trách nhiệm, tính gương mẫu của người đứng đầu quyết định hiệu quả thực hiện Nghị quyết. Nơi nào người đứng đầu nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu, chủ động và quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo thì ở nơi đó việc thực hiện Nghị quyết đi vào thực chất, hiệu quả, thiết thực.
4- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm kịp thời phát hiện, uốn nắn, khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm. Coi trọng sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm; thường xuyên rà soát, bổ sung kế hoạch, biện pháp sát với thực tế để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, nhân dân trong xây dựng Đảng. Kịp thời nhân rộng các mô hình, cách làm hay ở các địa phương, cơ quan, đơn vị.
Để đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở đáp ứng yêu cầu mới
Tỉnh ủy Long An xác định trong thời gian tới cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI và Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng. Thường xuyên giáo dục, nâng cao hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để đội ngũ cán bộ chủ chốt hiểu rõ, nắm vững, từ đó tự xây dựng cho mình phương pháp luận, nâng cao kiến thức, năng lực tư duy để đủ khả năng lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ ở cơ sở.
Hai là, xây dựng tiêu chuẩn chức danh và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị ở cơ sở theo vị trí việc làm, khung năng lực, bảo đảm đúng người, đúng việc, nâng cao chất lượng, hợp lý về cơ cấu. Thực hiện đồng bộ, đúng quy định các khâu, quy trình của công tác cán bộ. Nhận xét, đánh giá cán bộ phải thực sự chính xác, công tâm, khách quan trên cơ sở lấy kết quả, hiệu quả công việc làm thước đo chủ yếu trong đánh giá cán bộ gắn với cam kết tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu hằng năm; thực hiện đúng quan điểm, nguyên tắc, tính khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển; chấp hành nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình, nguyên tắc tập trung dân chủ; kết luận theo đa số, không áp đặt ý kiến chủ quan trong đánh giá, nhận xét cán bộ; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và nhân dân trong đánh giá, nhận xét cán bộ.
Ba là, quy hoạch cán bộ phải bảo đảm sự chủ động cho các nhiệm kỳ, bảo đảm cơ bản nguồn cán bộ cho đại hội Đảng bộ cấp cơ sở, bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử. Thực hiện thống nhất về quan điểm, mục tiêu, yêu cầu, quy trình, phương pháp, cách thức xây dựng quy hoạch cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cả trước mắt lẫn lâu dài; bảo đảm các yêu cầu về số lượng, chất lượng, cơ cấu trong quy hoạch cán bộ; bảo đảm tính kế thừa, phát triển và sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ.
Bốn là, xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hằng năm và cả nhiệm kỳ; chú trọng đào tạo toàn diện, đạt chuẩn chức danh, gắn đào tạo, bồi dưỡng với quy hoạch cán bộ; đào tạo trình độ quản lý, lý luận chính trị, đào tạo kiến thức về hội nhập quốc tế, ngoại ngữ, bồi dưỡng về nghiệp vụ chuyên ngành và kỹ năng công tác và cập nhật kiến thức mới phù hợp từng chức danh cán bộ. Mở các lớp bồi dưỡng cán nguồn chủ chốt cấp xã; có giải pháp nâng cao chất lượng để bảo đảm đạt yêu cầu về cơ cấu cán bộ trẻ, cán bộ nữ.
Năm là, việc bổ nhiệm cán bộ, giới thiệu cán bộ ứng cử phải được tiến hành có nền nếp, đúng nguyên tắc, công khai, minh bạch; kiện toàn đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng và cơ cấu 3 độ tuổi trong đội ngũ cán bộ, coi trọng bổ nhiệm cán bộ trẻ, cán bộ nữ; phải gắn với quy hoạch, tiêu chuẩn của từng chức danh và kết quả đánh giá, nhận xét cán bộ để bổ nhiệm cán bộ đúng năng lực, sở trường. Kiên quyết thay thế cán bộ hạn chế về năng lực, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm; bố trí công tác khác, hạ cấp hoặc chuyển sang chế độ chuyên viên đối với những cán bộ tín nhiệm thấp mà không chờ hết nhiệm kỳ hoặc hết tuổi công tác theo quy định.
Sáu là, đẩy mạnh công tác điều động, luân chuyển cán bộ để rèn luyện, thử thách, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ qua thực tiễn. Tăng cường luân chuyển cán bộ trẻ từ dưới 40 tuổi từ huyện về cơ sở để đào tạo, rèn luyện cán bộ. Phát hiện những cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị cấp xã có trình độ, năng lực thực tiễn để điều động lên cấp huyện. Thực hiện nghiêm quy định về thời gian luân chuyển cán bộ, gắn luân chuyển cán bộ với việc bố trí một số chức danh cán bộ không là người địa phương. Không điều động những cán bộ bị kỷ luật hoặc không hoàn thành nhiệm vụ ở cơ sở lên huyện và ở đơn vị này sang nhận chức vụ tương đương hoặc cao hơn ở đơn vị khác.
Bảy là, đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đối với công tác cán bộ. Các cấp ủy đảng quán triệt và cụ thể hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong quy chế làm việc và hoạt động của cấp ủy. Chấp hành tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, kết luận theo đa số; đồng thời đề cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu trong việc giới thiệu, tiến cử và chịu trách nhiệm về người được giới thiệu, tiến cử giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý. Rà soát, sửa đổi bổ sung các văn bản quy định về công tác cán bộ bảo đảm đồng bộ, thống nhất trong hệ thống chính trị. Phát huy quyền và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ; thực hiện nghiêm quy định về trách nhiệm và xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, phân công, phân cấp hợp lý, phát huy vai trò, trách nhiệm của cơ quan và người đứng đầu tổ chức trong công tác cán bộ. Quan tâm và làm tốt chính sách đối với cán bộ, nhất là chính sách sử dụng, quản lý, chính sách đào tạo, bồi dưỡng và chính sách tinh giản biên chế. /.
Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta theo đường lối Đại hội XII của Đảng  (23/10/2018)
Nghịch lý của “số đông”?  (23/10/2018)
Không bố trí kinh phí mua xe công, giảm mạnh chi cho lễ hội  (22/10/2018)
Giới thiệu Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để bầu giữ chức Chủ tịch nước  (22/10/2018)
Nghị quyết mới ban hành của Ủy ban Thường vụ Quốc hội  (22/10/2018)
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
- Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
- Một số nội dung chủ yếu trong đường lối, chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa liên quan đến chuyển đổi công nghiệp
- Mối quan hệ giữa già hóa dân số và tăng trưởng kinh tế: Kinh nghiệm của Nhật Bản và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Một số giải pháp đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên