Xây dựng Đảng về đạo đức cần gắn chặt với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức

Nguyễn Minh Tuấn PGS, TS, Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
21:20, ngày 29-06-2017

TCCS - Xây dựng Đảng về đạo đức là điểm mới, điểm nhấn, là sự bổ sung hết sức cần thiết trong đổi mới tư duy về xây dựng Đảng hiện nay, phù hợp với nhu cầu xây dựng Đảng, đáp ứng nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Các cấp ủy, tổ chức đảng phải nhận diện đầy đủ, sâu sắc để kiên quyết đẩy lùi 27 biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng về đạo đức là một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm 2016 - 2020: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.

Ngay từ khi tuyên truyền, vận động thành lập Đảng, trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đề cập vấn đề tư cách đạo đức của một người cách mạng, xác định cụ thể những chuẩn mực của người cách mạng trong từng mối quan hệ: với mình, với người và với việc.

Sau khi giành được chính quyền, trong điều kiện Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở các cấp ủy đảng, đảng viên phải giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng, xác định vị thế của những công bộc của dân, phục vụ nhân dân, không phải là những “quan cách mạng”. Người đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” gồm 67 trang với 6 chương, trong đó Chương III dành riêng viết về “Tư cách và đạo đức cách mạng” nêu khá đầy đủ những vấn đề lý luận và thực tiễn với 12 điều về “tư cách của Đảng chân chính cách mạng”. Sau đó, Người còn viết khá nhiều bài về đạo đức, như “Chủ nghĩa cá nhân” (năm 1948); “Cần kiệm liêm chính” (năm 1949); “Thường thức chính trị” (năm 1953), “Đạo đức công dân” (năm 1955); “Đạo đức cách mạng” (năm 1958). Đặc biệt, năm 1960, tại lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự hào khẳng định: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Di sản cuối cùng của Người để lại là Di chúc, trong đó vấn đề đạo đức cách mạng được nhắc đến như một điểm nhấn trong công tác xây dựng Đảng: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(1).

Năm 1976, sau khi đất nước giành độc lập hoàn toàn, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã tổng kết công tác xây dựng Đảng, rút ra phương châm xây dựng Đảng là: “phải xây dựng Đảng vững mạnh về cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Ba mặt ấy gắn liền với nhau, quyết định lẫn nhau. Xây dựng Đảng về tư tưởng và về tổ chức phải kết hợp chặt chẽ với nhau, phải xuất phát từ đường lối và nhiệm vụ chính trị, đồng thời bảo đảm cho đường lối và nhiệm vụ chính trị được xác định đúng, được thấu suốt và thực hiện đầy đủ”(2).

Để khắc phục những khuyết điểm trong chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội, nhất là duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, Đảng ta đã chủ trương đổi mới toàn diện đất nước. Hơn 30 năm qua, đất nước vượt qua thời kỳ khủng hoảng, giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Về công tác xây dựng Đảng, tính từ Đại hội VI của Đảng đến nay, không có nhiệm kỳ nào Trung ương Đảng không có nghị quyết về xây dựng Đảng, về đổi mới chỉnh đốn Đảng, kể cả 2 cuộc vận động lớn: “Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng” (Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII) và “Cuộc vận động học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” (Chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 7-11-2006, của Bộ Chính trị khóa X). Mặc dù vậy, mục tiêu cơ bản của các cuộc vận động đều không đạt được yêu cầu. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn. Những hạn chế, khuyết điểm đó làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ.

Vì vậy, 40 năm sau, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã bổ sung nội dung xây dựng Đảng về đạo đức trong công tác xây dựng Đảng: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”(3). Đây là lần đầu tiên, vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức được tách ra thành một nội dung độc lập, được đặt ngang hàng với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Từ đây, công tác xây dựng Ðảng vững mạnh bao gồm 4 mặt cơ bản: chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.

Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII ban hành Nghị quyết số 04 - NQ/TW, “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “trong nội bộ”. Theo đó, Đảng yêu cầu phải “Xây dựng và thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng Đảng về đạo đức”. Vì thế, khoa học xây dựng Đảng cần được tiếp tục nghiên cứu làm sâu sắc hơn trước hết là những vấn đề lý luận về đạo đức, như khái niệm; mối quan hệ giữa xây dựng Đảng về đạo đức với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; vai trò, nội dung và phương thức xây dựng Đảng về đạo đức.

Quan niệm xây dựng Đảng về đạo đức

“Đạo đức là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội thừa nhận, nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội”(4).

Nói cách khác, đạo đức là cách ứng xử giữa con người với con người và với xã hội theo những quy tắc, những chuẩn mực, những giá trị truyền thống tốt đẹp. Những chuẩn mực giá trị của đạo đức chi phối mỗi hành vi của con người trong cả cuộc đời. Vì thế, đạo đức được coi là “tài sản vô hình” của con người, thậm chí còn có giá trị hơn cả tài năng (có tài mà không có đức là người vô dụng) hay “con người cần phải có cả tài và đức nhưng đức là gốc”.

Đạo đức cách mạng là đạo đức của người cán bộ, đảng viên với những chuẩn mực đạo đức mới, “tận trung với nước, tận hiếu với dân”,“gồm có năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”(5).

Những chuẩn mực về đạo đức cách mạng không tách rời những giá trị, chuẩn mực đạo đức nói chung. Đạo đức trong Đảng là đạo đức cách mạng, đạo đức của người đảng viên xoay quanh những chuẩn mực giá trị: cần, kiệm, liêm, chính và những nguyên tắc sống: chí công vô tư. Đạo đức đó đối lập với chủ nghĩa cá nhân, cho nên muốn xây dựng đạo đức cách mạng thì phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa cá nhân là “căn bệnh gốc, bệnh mẹ đẻ ra trăm thứ bệnh con, xấu xa, hư hỏng, lỗi thời”, đòi hỏi phải “đánh bại giặc nội xâm” tức chủ nghĩa cá nhân.

Xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng và thực hiện những chuẩn mực giá trị đạo đức cách mạng của đội ngũ đảng viên, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chủ thể của xây dựng Đảng về đạo đức là toàn Đảng, toàn dân và bản thân từng đảng viên. Các tổ chức đảng từ chi bộ đến các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng đều phải hiểu đúng và làm đúng các chuẩn mực đạo đức, các nguyên tắc, quy định của Đảng, thực hiện mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Nhân dân chủ yếu thông qua các tổ chức đại diện của mình là Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội phản biện những chủ trương, chính sách của Đảng, các quy định của Nhà nước, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền nhà nước.

Đối tượng xây dựng Đảng về đạo đức là từng tổ chức đảng, đảng viên. Tất cả các tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở (không có ngoại lệ) đều đươc giáo dục, học tập, rèn luyện những chuẩn mực đạo đức, thường xuyên tự kiểm điểm, tự phê bình và phê bình về từng nội dung, chuẩn mực đạo đức cách mạng theo quy định. Từng đảng viên phải tự giác rèn luyện mình, hành động theo những chuẩn mực đạo đức, các nguyên tắc, quy định của Đảng.

Mục tiêu xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng tổ chức đảng đoàn kết, có văn hóa, đội ngũ đảng viên trung thành với mục tiêu lý tưởng của Đảng, thực hiện đầy đủ, đúng đắn những quy định về tư cách của người đảng viên trong Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Mối quan hệ giữa xây dựng Đảng về đạo đức với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức

Xây dựng Đảng về chính trị có tính chất bao trùm, chi phối xây dựng Đảng về tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Xây dựng Đảng về tư tưởng, tổ chức và đạo đức đều xuất phát từ xây dựng Đảng về chính trị và phục vụ nhiệm vụ chính trị, làm căn cứ lý luận và thực tiễn cho xây dựng Đảng về chính trị.

Xây dựng Đảng về đạo đức không chỉ là một trong 4 trụ cột của công tác xây dựng Đảng nói chung, có mối quan hệ qua lại giữa các mặt trong nội dung xây dựng Đảng mà còn là cơ sở bảo đảm cho xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại, là cơ sở, tiền đề và là hệ quả của nhau, thúc đẩy nhau, bảo đảm cho Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự là đội tiên phong lãnh đạo toàn xã hội.

Đối với xây dựng Đảng về chính trị: Xây dựng Đảng về đạo đức là nền tảng vững chắc của xây dựng Đảng về văn hóa - văn hóa chính trị, văn hóa ứng xử trong Đảng, giữa cấp trên với cấp dưới, giữa đảng viên với đảng viên, đảng viên với quần chúng nhân dân. Xây dựng Đảng về đạo đức góp phần giữ vững bản lĩnh chính trị, đồng thời, đạo đức làm cho chính trị, nhất là quyền lực thấm nhuần tinh thần nhân văn, không bị tha hóa, mất phương hướng và sai lầm, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Đối với công tác xây dựng Đảng về tư tưởng: Xây dựng Đảng về đạo đức là sự kết hợp giữa giáo dục nhận thức với bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cách mạng, hình thành niềm tin khoa học và thực hành đạo đức, lối sống của cán bộ đảng viên, trong từng tổ chức đảng và trong toàn Đảng. Người có đạo đức thường dễ tiếp thu chân lý hơn. Đạo đức yếu kém, suy đồi dễ dẫn đến dao động, mất niềm tin vào chế độ chính trị, từ bỏ và vi phạm nguyên tắc hoạt động của Đảng.

Đối với xây dựng Đảng về tổ chức: Xây dựng Đảng về đạo đức giúp gắn kết các thành viên trong tổ chức, giữ cho tổ chức sự thống nhất ý chí và hành động, trong sạch và vững mạnh. Qua thực hành đạo đức, thực hành dân chủ, thực hành tự phê bình và phê bình, thường xuyên tiếp thu ý kiến đóng góp của người dân về xây dựng Đảng, thực hiện sự giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với tổ chức đảng và các cán bộ đảng viên... sẽ góp phần xây dựng tổ chức vững mạnh toàn diện và bền vững.

Những nội dung và phương thức xây dựng Đảng về đạo đức

Một là, xây dựng hệ thống chuẩn mực các mối quan hệ của đảng viên với tổ chức đảng và với nhân dân.

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng, nên sự thay đổi về thể chế chính trị, kinh tế, xã hội... sẽ làm thay đổi nhất định đến những chuẩn mực đạo đức xã hội. Đạo đức xã hội biểu hiện trước hết ở những quan niệm của xã hội về tốt - xấu, phải - trái, đúng - sai, thiện - ác, vinh - nhục..., về lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử của cá nhân đối với cá nhân và cá nhân đối với xã hội. Đạo đức xã hội thể hiện ở hành vi đạo đức tức là thực tiễn ứng xử trên cơ sở ý thức đạo đức của cá nhân đối với cá nhân, với tự nhiên, đồ vật, xã hội và cả đối với chính mình.

Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, nhiều giá trị đạo đức xã hội bị thay đổi, thậm chí những hành xử đúng mực lại bị coi là lạc hậu, lỗi thời, những kẻ xu nịnh lại trở thành đệ tử thân tín. Vì vậy, cần chuẩn hóa tiêu chí đạo đức xã hội nói chung, đạo đức trong Đảng trong điều kiện mới và những chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp của từng cơ quan, đơn vị bằng những quy định cụ thể để tuyên truyền, vận động thực hiện, phê phán hành vi sai trái.

Hai là, thường xuyên giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của mỗi đảng viên.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(6). Vì vậy, phải kiên trì bồi dưỡng đạo đức cách mạng với lý tưởng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhấn mạnh chuẩn mực cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đồng thời chú trọng kết hợp giữa giáo dục nhận thức với rèn luyện lập trường quan điểm, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cách mạng, hình thành niềm tin khoa học và thực hành đạo đức, lối sống của cán bộ đảng viên, trong từng tổ chức đảng và toàn Đảng.

Ba là, thực hành tự phê bình và phê bình, chân thành tiếp thu ý kiến đóng góp, chịu thực hiện sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với tổ chức đảng và đảng viên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình trong Đảng như việc “rửa mặt hằng ngày”. Người đã cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân.”(7). Phát huy vai trò của tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng phải vì công việc chung, sự đoàn kết của tổ chức và vì sự tiến bộ của từng đảng viên như lời Bác dạy: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin được”(8).

Bốn là, xây dựng Đảng về đạo đức gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng. Xây dựng Đảng về đạo đức gắn chặt với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, coi đó là một nhu cầu văn hóa, thành động lực tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đây là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị, gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.

Năm là, xây dựng Đảng về đạo đức gắn với giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và các quy định của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên.

Cần phải làm cho toàn Đảng nhận thức đúng và tự giác thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ đó để sức mạnh đạo đức cùng với sức mạnh của luật pháp phát huy hiệu lực, hiệu quả. Thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, đảng viên phải tuân thủ các quy định của Đảng, đồng thời tăng cường giáo dục rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên. Đây là biện pháp quan trọng, hỗ trợ, bổ sung cho hệ thống pháp luật, cùng với những quy phạm về đạo đức trở thành một hệ thống các quy tắc xử sự của cán bộ, công chức, đảng viên trong tổ chức nhà nước, tổ chức đảng, đoàn thể trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức.

Sáu là, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo phải làm gương, nêu gương.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(9). Đảng lãnh đạo bằng khoa học, dân chủ, nêu cao pháp luật, kỷ luật, kỷ cương chưa đủ, Đảng còn phải biết lãnh đạo bằng sự gương mẫu, nhất là gương mẫu về đạo đức, trách nhiệm, lối sống, ứng xử và cư xử hằng ngày với quần chúng.

Do đó, phải xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị.

Hiện nay, các cấp ủy đảng và từng đảng viên đang thực hiện tự phê bình và phê bình theo Kế hoạch số 04 - KH/TW, ngày 16-11-2016, của Bộ Chính trị gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05 - CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Theo đó, 27 biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã xác định sẽ được mỗi tổ chức đảng, đảng viên soi xét bản thân mình, thật thà nhận khuyết điểm, làm rõ nguyên nhân và thành tâm sửa chữa khuyết điểm (nếu có) bằng những cam kết hành động cụ thể và kiểm điểm thực hiện những cam kết đó trong dịp tổng kết đánh giá, xếp loại tổ chức đảng, đảng viên cuối năm. Đồng thời, khi kiểm điểm góp ý đảng viên nhưng có những dấu hiệu vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, vi phạm tư cách đảng viên thì phải dừng kiểm điểm để tiến hành kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm. Đặc biệt, các tổ chức đảng và đảng viên được cấp ủy cấp trên gợi ý kiểm điểm khi có những dấu hiệu của những biểu hiện suy thoái thì phải làm rõ hơn tính chất, mức độ của những dấu hiệu đó và thành thật báo cáo với cấp trên. Đó là những việc làm cụ thể, thiết thực, bước đầu để thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII và là nhiệm vụ quan trọng có tính đột phá để thực hiện nhiệm vụ tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng.

Xây dựng Đảng về đạo đức đang tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện cả về lý luận và thực tiễn chắc chắn sẽ đem lại luồng sinh khí mới trong công tác xây dựng Đảng hiện nay./.

--------------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 611

(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 37, tr. 625

(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 202

(4) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Đạo đức học Mác - Lê-nin, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004, tr. 7

(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 291

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 612

(7), (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 672, 668

(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 284