Xây dựng, phát huy văn hóa chính trị của Đảng Cộng sản trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Phùng Hữu Phú GS, TS, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương
22:41, ngày 24-04-2014

TCCS -  Chính trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp phát triển văn hóa nói riêng, sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc nói chung, Đảng đã sáng tạo nên những giá trị nổi bật, kết tinh trong lý tưởng, trí tuệ, phẩm chất, hoạt động của Đảng, tạo thành năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, uy tín của Đảng trước dân tộc, quốc tế. Những giá trị đó tổng hợp thành văn hóa Đảng mà hạt nhân là văn hóa chính trị của Đảng.

1- Văn hóa chính trị của Đảng là sự kế thừa và phát triển lên tầm cao, với chất lượng mới từ các giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước. Truyền thống văn hiến, anh hùng với những giá trị cao đẹp: chủ nghĩa yêu nước; ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; đạo lý nhân nghĩa, thủy chung; tinh thần tương thân, tương ái, khoan dung, hòa hiếu... của dân tộc chính là nền tảng vững chắc xây nên văn hóa chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Đảng Cộng sản, một mặt, kế thừa, hấp thụ những giá trị tinh hoa của văn hóa chính trị dân tộc để bồi đắp nên bản lĩnh chính trị, phẩm chất chính trị của mình; mặt khác, cải biến, phát triển, phát huy những giá trị của văn hóa chính trị dân tộc, hình thành văn hóa chính trị cách mạng, khoa học, đưa văn hóa chính trị kiểu mới trở về với nhân dân, nhân lên sức mạnh chính trị của toàn dân tộc.

Văn hóa chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam được khơi nguồn trực tiếp, được dẫn dắt từ ánh sáng văn hóa chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà Văn hóa kiệt xuất; Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh ngời sáng những giá trị cao quý: lý tưởng độc lập dân tộc - dân chủ - chủ nghĩa xã hội; phẩm chất tận trung với nước, tận hiếu với dân, tất cả do con người, vì con người; đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tấm lòng nhân ái, khoan dung, đại độ; lối sống thanh bạch, giản dị. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là văn hóa ái quốc - cách mạng - dân chủ - nhân văn - đổi mới - liêm khiết. Sức sống mãnh liệt, sức cảm hóa và dẫn dắt kỳ diệu của văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là ở đó. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm hết sức mình cùng với các thế hệ cách mạng tiền bối, các thế hệ lãnh đạo của Đảng qua nhiều thời kỳ, ra sức phấn đấu xây dựng Đảng ta trở thành một chính đảng kiểu mới - đảng đạo đức, văn minh, thật sự tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của thời đại.

Văn hóa chính trị của Đảng tràn đầy sinh khí và đậm tính khoa học vì được phát triển theo định hướng của văn hóa chính trị Mác - Lê-nin, nổi bật là lý tưởng giải phóng con người và xã hội khỏi xiềng xích áp bức, bất công; sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Văn hóa chính trị của Đảng không ngừng được bồi đắp phong phú trên tinh thần cởi mở, hướng ra thế giới, tiếp thu những giá trị tinh hoa của văn hóa chính trị nhân loại trong thời đại mới theo hệ giá trị: hòa bình, công lý, hữu nghị, hợp tác, phát triển.

Như vậy, văn hóa chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam được hình thành từ nhiều nguồn, được kiểm nghiệm và khẳng định trong thực tiễn đấu tranh, sáng tạo không mệt mỏi của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam. Đó là nguồn lực nhân văn, là tài sản văn hóa vô giá, và cũng là thuận lợi cơ bản của Đảng khi bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

2- Để hoàn thành sứ mệnh và trọng trách của một chính đảng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội kiến tạo chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa hoàn toàn mới, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt và thường xuyên coi trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, hệ trọng, liên quan trực tiếp đến vai trò lãnh đạo của Đảng, đến sự tồn vong của chế độ và tiền đồ phát triển của đất nước. Mục đích tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng là nhằm tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính cách mạng tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân. Về thực chất, quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng là quá trình xây dựng, phát huy các nhân tố văn hóa chính trị của Đảng, quá trình sáng tạo những giá trị mới phù hợp với thời đại mới, thời kỳ cách mạng mới.

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã trải qua gần tròn 60 năm, khởi đầu từ năm 1954 ở miền Bắc, sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1946 - 1954 kết thúc thắng lợi; được mở rộng trên phạm vi cả nước sau năm 1975, khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng khỏi ách kìm kẹp của đế quốc Mỹ và các thế lực phản động tay sai; đặc biệt, được phát triển mạnh mẽ từ năm 1986 đến nay, gắn với công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng, lãnh đạo. Tùy theo điều kiện, yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng, Đảng xây dựng, phát huy văn hóa chính trị với mục tiêu, nội dung, phương thức cụ thể, phù hợp. Song về cơ bản, quá trình đó đều tập trung vào những vấn đề cốt lõi bảo đảm tăng cường bản chất cách mạng, khoa học của Đảng.

Thứ nhất, Đảng luôn kiên định mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc - dân chủ - chủ nghĩa xã hội, xem đây là giá trị hạt nhân của văn hóa chính trị, là nền tảng chính trị vững chắc củng cố sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội. 

Sự kiên định của Đảng được thể hiện nổi bật vào những thời điểm phức tạp, những bước quanh co của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; những lúc cách mạng trong nước gặp nhiều khó khăn, thử thách. Đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ gây nên cuộc chấn động chính trị toàn cầu, khi cách mạng Việt Nam đang phải đối mặt với chồng chất khó khăn, Đảng đã công bố Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) - Cương lĩnh này được bổ sung, phát triển vào năm 2011. Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 chính là tuyên ngôn chính trị phản ánh bản lĩnh, lập trường trước sau như một của Đảng về mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội - con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn. Chính sự kiên định chính trị, bản lĩnh chính trị của Đảng là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội ở Việt Nam - điều kiện quan trọng để công cuộc đổi mới được triển khai thắng lợi.

Thứ hai, Đảng tuyệt đối trung thành và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện, yêu cầu của thực tiễn đất nước trong từng giai đoạn phát triển.

Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Đó là lập trường bất di bất dịch - trung thành tuyệt đối, không ngả nghiêng, dao động, song không mù quáng, giáo điều, không tự trói mình trong những tín điều cứng nhắc. Đảng luôn tâm niệm cách mạng là sáng tạo, chân lý là cụ thể; chú trọng nghiên cứu, phát triển học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học; nghiêm túc tổng kết thực tiễn, tiếp thu sáng kiến của nhân dân; cởi mở nhìn ra thế giới, cầu thị học tập kinh nghiệm quốc tế; tìm tòi và sáng tạo, độc lập và tự chủ xây dựng, hoàn thiện đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Đường lối đổi mới đúng đắn, mang lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong gần 30 năm qua là minh chứng sinh động khẳng định tầm trí tuệ - một giá trị cốt lõi trong văn hóa chính trị của Đảng. Trên thực tế, đường lối đổi mới đã khai mở mọi tiềm năng của đất nước, thật sự là ngọn cờ tập hợp toàn Đảng, toàn dân vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ chế độ xã hội mới.

Thứ ba, Đảng chú trọng nâng cao văn hóa tổ chức, văn hóa dùng người, chăm lo xây dựng bộ máy tổ chức vững mạnh, đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ.

Thấu triệt phương châm đổi mới chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế, căn cứ vào yêu cầu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng thường xuyên đổi mới, củng cố hệ thống, mô hình tổ chức của Đảng; của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội từ Trung ương đến cơ sở theo hướng tinh gọn, chặt chẽ, hoạt động đồng bộ, hiệu quả, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, của tổ chức cơ sở đảng.

Cán bộ là chủ thể trực tiếp sáng tạo và truyền bá văn hóa chính trị của Đảng, là “gốc” của thắng lợi. Đảng xây dựng, chỉ đạo thực hiện Chiến lược công tác cán bộ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng, hoàn thiện các chính sách, cơ chế, quy định, tiêu chuẩn cán bộ; đổi mới quy trình phát hiện, đánh giá, quy hoạch, bồi dưỡng - đào tạo, luân chuyển, sử dụng, sàng lọc, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch. Đổi mới công tác bầu cử trong Đảng; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các cấp ủy, tổ chức chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội; tổ chức thi tuyển một số chức danh trong bộ máy quản lý; thí điểm lấy phiếu tín nhiệm các chức danh dân cử... là những bước tiến có ý nghĩa trong văn hóa dùng người của Đảng. Hướng đích của văn hóa dùng người là xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ tinh hoa thực đức, thực tài, thực làm, thực học, trong đó đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và đội ngũ cán bộ ở cơ sở trực tiếp hằng ngày với dân có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng. 

Suốt mấy chục năm tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trực tiếp là gần 30 năm đổi mới, hệ thống tổ chức của Đảng, của hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ của Đảng có mặt trên tất cả các lĩnh vực, các địa bàn, các cấp, ngành… đã có những đóng góp quan trọng, khẳng định sức sống của văn hóa tổ chức, văn hóa dùng người.

Thứ tư, Đảng đặt vấn đề xây dựng đạo đức, lối sống trong Đảng, trong hệ thống chính trị; xây dựng, phát huy phẩm chất, nhân cách và sự nêu gương của cán bộ, đảng viên làm nền tảng văn hóa chính trị của Đảng.

Ra đời và trưởng thành trong lòng một dân tộc văn hiến, trọng đạo lý, nhân cách; hoạt động trong bối cảnh kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế tác động đến đời sống xã hội, đời sống của Đảng hằng ngày theo cả hai chiều thuận - nghịch, đồng thời với việc quan tâm xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, Đảng nhận thức sâu sắc tầm quan trọng đặc biệt của việc xây dựng Đảng về đạo đức. Đảng nhấn mạnh: văn hóa đạo đức và lối sống lành mạnh phải được thể hiện trước hết trong mọi tổ chức của Đảng, Nhà nước, đoàn thể, trong cán bộ, đảng viên, hội viên, viên chức nhà nước. Từ sự gương mẫu về mọi mặt của các tổ chức, của từng cán bộ, đảng viên mà phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội, lãnh đạo nhân dân xây dựng đời sống văn hóa.

Từ Đại hội X của Đảng (năm 2006) đến nay, trong toàn Đảng đã và đang triển khai sâu rộng việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, cốt lõi là thấm nhuần và rèn luyện theo những giá trị đạo đức cao quý của Người; đặt lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc lên trên hết, trước hết; suốt đời tận tụy phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; vừa là người lãnh đạo, vừa là công bộc trung thành của nhân dân. Từ một cuộc vận động có tổ chức chỉ đạo chặt chẽ từ trên xuống dưới, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đang từng bước, từng bước trở thành suy nghĩ, hành động của các tổ chức đảng, từ Ban Chấp hành Trung ương đến chi bộ đảng, từ đồng chí Tổng Bí thư đến đồng chí đảng viên ở cơ sở, gắn với thực hiện các nhiệm vụ chính trị, với công việc hằng ngày.

Thứ năm, Đảng quan tâm đổi mới, nâng cao tính khoa học, tính thuyết phục và sức tập hợp trong phương pháp, phương thức, phong cách, tác phong lãnh đạo - cầm quyền, nhân rộng tầm lan tỏa văn hóa chính trị của Đảng.

Phương pháp lãnh đạo - cầm quyền của Đảng là phương pháp duy vật biện chứng, luôn xuất phát từ thực tiễn đất nước, thực tiễn thế giới; đánh giá, dự báo, phát hiện mâu thuẫn, yêu cầu, xu hướng, khả năng… để đưa ra và thực hiện những quyết sách chính trị đúng đắn - sát thực tiễn, hợp lòng dân, thuận cùng thời đại.

Phương thức lãnh đạo - cầm quyền của Đảng không thiên về mệnh lệnh, áp đặt, bao biện mà coi trọng việc thuyết phục, vận động, nêu gương; tôn trọng, phát huy tính chủ động, năng động và năng lực sáng tạo của mọi tổ chức, cá nhân vì lợi ích của đất nước, dân tộc.

Phong cách lãnh đạo - cầm quyền của Đảng, cốt yếu là phong cách dân chủ; dân chủ trong Đảng, trong xã hội; đặt nhân dân ở vị trí trung tâm, Đảng lãnh đạo nhưng nhân dân làm chủ, Đảng cầm quyền nhưng nhân dân là gốc, Đảng lãnh đạo - cầm quyền để nhân dân phát huy quyền làm chủ.

Tác phong lãnh đạo - cầm quyền của Đảng, trước hết là tác phong quần chúng, gần dân, trọng dân, tin dân, hiểu dân, học dân; việc gì có lợi cho dân thì gắng sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh.

Những định hướng nêu trên không dừng lại ở những nguyên lý, những chủ trương mà đang từng bước đi vào đời sống thông qua việc Đảng ban hành và thực hiện các quy chế, quy định cụ thể, thiết thực: tiến hành điều tra dư luận xã hội trước khi ban hành những quyết sách quan trọng; đối thoại, chất vấn trong Đảng; việc nêu gương của cán bộ đứng đầu các ngành, các cấp; cán bộ lãnh đạo đi cơ sở, tiếp xúc, đối thoại với nhân dân... Bớt hội họp, tăng cường bám sát thực tiễn, trực tiếp giải quyết những vấn đề bức xúc ở cơ sở, những nguyện vọng chính đáng của nhân dân; nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; khiêm tốn, giản dị, hòa đồng, nêu gương trước cấp dưới, trước nhân dân… là những tố chất văn hóa chính trị đang dần định hình trong đội ngũ cán bộ của Đảng.

3- Tổng kết quá trình hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đúc kết 5 bài học lớn, trong đó sâu sắc, thấm thía là bài học về nhân dân: sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử... Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân(2). Theo lô-gíc đó, văn hóa chính trị của Đảng chỉ có thể phát triển bền vững và tỏa sáng một khi gắn kết, hòa hợp hữu cơ thành bộ phận hạt nhân, không thể tách rời của văn hóa chính trị dân tộc, nhân dân. Đó là quy luật tồn tại, phát triển văn hóa chính trị của Đảng

Nhận thức sâu sắc tính quy luật này, Đảng hướng mọi nỗ lực đưa sức sống thực tiễn và các giá trị sáng tạo của nhân dân như một nguồn năng lượng vô tận vào quá trình vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm không ngừng hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, lấy lòng dân xây thành ý Đảng. Đồng thời, tích cực đưa chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng về với nhân dân, chuyển ý Đảng thành lòng dân, thành nhận thức tự giác và tình cảm tự nhiên của nhân dân, chuyển hóa thành ý thức chính trị, bản lĩnh chính trị, tính tích cực chính trị - xã hội. Đưa chính trị vào giữa nhân gian, làm cho nhân dân, ai cũng cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do; làm cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình; làm cho mọi người từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc của mình nên được hưởng... trở thành mục tiêu phấn đấu, phương châm hoạt động của công tác tư tưởng, chính trị, tuyên truyền, giáo dục, vận động của Đảng.

Để có cơ sở xã hội vững chắc cho văn hóa chính trị phát triển, mối quan tâm đặc biệt của Đảng là xây dựng con người và cộng đồng xã hội. Đảng xác định, con người là trung tâm của chiến lược phát triển; phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Trách nhiệm trước hết của Đảng, của hệ thống chính trị, của toàn xã hội, cộng đồng, gia đình, nhà trường... là chăm lo xây dựng, bảo vệ, phát huy hệ giá trị của con người, của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, trong đó giá trị cốt lõi là yêu nước, tự chủ, tự cường, đoàn kết phấn đấu vì độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội, vì một nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, góp phần vào sự nghiệp bảo vệ hòa bình và tiến bộ xã hội của toàn nhân loại.

Để có thể đưa văn hóa chính trị của Đảng thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, hành động của nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng ba vấn đề cơ bản:

Một là, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực, các địa bàn. Theo tinh thần này, Đảng lãnh đạo xây dựng, triển khai thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở; Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn...; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước; tham gia xây dựng, giám sát hoạt động của tổ chức đảng, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, của cán bộ, đảng viên; tham gia sáng tạo, lưu giữ, truyền bá, bảo vệ những giá trị văn hóa...

Hai là, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao chất lượng sống của nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc; bảo đảm điều kiện và cơ hội để con người phát triển toàn diện.

Ba là, định hướng, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước: phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa; phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo; xây dựng nông thôn mới; “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”... Phong trào hành động mang tính xã hội sâu rộng, đậm đà tính nhân văn là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng, bồi đắp, lan tỏa những giá trị văn hóa chính trị, nơi xuất hiện những nhân tố mới, ươm mầm cho sự phát triển không ngừng của văn hóa chính trị.

Nhân tố xuyên suốt như là nguồn mạch chủ đạo, là sức sống của toàn bộ những định hướng, hoạt động nêu trên, quy lại chỉ là một: Đảng, các tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên của Đảng phải thật sự là tấm gương văn hóa chính trị - tấm gương thực hành dân chủ, tấm gương phục vụ nhân dân, tấm gương đi đầu trong hành động cách mạng.

4- Xây dựng, phát huy văn hóa chính trị của Đảng là một sự nghiệp vĩ đại, lâu dài, gian khổ - một cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại cái cũ kỹ, lạc hậu, tạo ra cái mới mẻ, tốt tươi, như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người đi xa.

Đồng thời với những thuận lợi cơ bản, quá trình xây dựng, phát huy văn hóa chính trị của Đảng cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức gay gắt.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội để tiến tới chủ nghĩa cộng sản - một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, ưu việt hơn chủ nghĩa tư bản, là lý tưởng cao đẹp, thuận theo quy luật tiến hóa của lịch sử nhân loại, song là một sự nghiệp rất lâu dài, vô cùng khó khăn, phức tạp. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen(3) - có những nhân tố, hình thức tổ chức kinh tế, xã hội mang tính chất xã hội chủ nghĩa đang từng bước hình thành, có cả những nhân tố, hình thức kinh tế, xã hội mang tính chất tư bản chủ nghĩa, thậm chí tiền tư bản chủ nghĩa. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện như thế thật sự là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, một cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp, gay gắt giữa cái cũ và cái mới, giữa cái tiến bộ và cái phi tiến bộ, phản tiến bộ, giữa cái thiện và cái ác... nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh này không chỉ có thuận buồm, xuôi gió mà nhiều lúc gặp sóng to, gió cả; không chỉ có thắng lợi mà nhiều khi phải chấp nhận thất bại tạm thời; không chỉ có thẳng tiến mà có cả những bước lùi, những khúc quanh... Tính chất lâu dài, gian khổ, phức tạp của công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã tác động đến tư tưởng chính trị, thái độ chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tuyệt đại bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân kiên định, tin tưởng đi theo con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, các thế hệ cách mạng tiền bối đã lựa chọn, song không phải không có những người hoài nghi, dao động, chùn bước, ngã lòng, muốn quay về con đường cũ hoặc đi theo con đường khác.

Để có thể khai thác, phát huy cao nhất các nguồn lực trong nước và ngoài nước, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Đường lối, chủ trương đúng đắn đó đã tạo nên những động lực mạnh mẽ, những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa mà ưu thế nghiêng về các nước tư bản chủ nghĩa cũng phát sinh nhiều hệ lụy. Ngoài những hệ lụy về kinh tế, trầm trọng và rất đáng lo ngại là hệ lụy chính trị, xã hội. Sự phân hóa giàu nghèo, phân hóa, phân tầng xã hội; sự xuất hiện những hiện tượng bất bình đẳng, tiêu cực, tệ nạn xã hội chậm được khắc phục là tiền đề nảy sinh nguy cơ phân hóa về tư tưởng. Chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, tôn thờ một cách mù quáng quyền lực - tiền tài - danh vọng, đặt lợi ích cá nhân cao hơn tất cả, xu hướng vọng ngoại, sùng ngoại... thâm nhập, làm tha hóa một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân, trong đó có những cán bộ cấp cao... là những độc tố tác động đến nhận thức, niềm tin chính trị.

Các thế lực thù địch chủ nghĩa xã hội, thù địch cách mạng Việt Nam đã tận dụng những tình huống chính trị, xã hội phức tạp; khoét sâu, thổi phồng những khó khăn, khuyết điểm trong lãnh đạo, quản lý kinh tế, xã hội của Đảng, Nhà nước; tập hợp lực lượng chống đối, sử dụng mọi phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là mạng in-tơ-nét... điên cuồng tiến công chống phá Đảng, trước hết nhằm vào hệ tư tưởng, mục tiêu chính trị, bản chất cách mạng, vai trò lãnh đạo của Đảng, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên... Âm mưu thâm độc, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của các thế lực phản động, thù địch đã tác động đến nhận thức, thái độ chính trị của một số cán bộ, đảng viên, nhân dân thiếu cảnh giác và thiếu sức đề kháng.

Trước tình hình phức tạp trong đời sống chính trị - xã hội, quá trình xây dựng văn hóa chính trị của Đảng thật sự là một cuộc đấu tranh bền bỉ, quyết liệt; một quá trình kết hợp biện chứng giữa “xây” và “ chống”, giữa không ngừng sáng tạo những giá trị mới với kiên quyết đấu tranh ngăn ngừa, xóa bỏ những độc tố phản văn hóa, phi văn hóa. Hiện nay Đảng đặt lên hàng đầu nhiệm vụ đấu tranh ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh; kết gắn chặt chẽ việc phòng ngừa biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ với kiên quyết tiến công làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực phản động, thù địch.

5- Lịch sử dân tộc, lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh sức sống mãnh liệt, sức mạnh vĩ đại của văn hóa chính trị. Qua hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước, dân tộc Việt Nam không bị đồng hóa, không chịu khuất phục trước sự xâm lược, đô hộ của ngoại bang, luôn quật khởi thắng lợi bằng sức mạnh văn hóa “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”. Trong thời đại Hồ Chí Minh, với sự lãnh đạo của Đảng, văn hóa chính trị được tiếp nguồn sinh lực, phát triển lên tầm cao mới, trở thành sức mạnh vô địch làm nên thắng lợi vẻ vang trong cách mạng, trong kháng chiến, trong đổi mới.

Việt Nam đang quyết tâm tận dụng mọi thời cơ, vận hội, vượt qua những nguy cơ, thách thức để trở thành quốc gia phồn vinh, hạnh phúc. Dù khó khăn, thử thách còn nhiều, song nhất định mục tiêu tốt đẹp đó sẽ trở thành hiện thực, bởi vì Việt Nam đang quyết tâm xây dựng, phát huy nền văn hóa chính trị khoa học và cách mạng - nền văn hóa đặt giá trị của con người, chứ không phải lợi nhuận hay bạo lực, ở vị trí trung tâm của phát triển./.

---------------------------------------

(1) Ba trụ cột trong chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam: phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội

(2) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 9

(3) Xem: Cương lĩnh đã dẫn, tr. 17