Đào tạo nguồn nhân lực báo chí, truyền thông ở Việt Nam trong tình hình mới

Trương Ngọc Nam PGS, TS, Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền
22:05, ngày 08-08-2018

TCCS - Để thực hiện sứ mệnh to lớn là phương tiện, là vũ khí sắc bén trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời là tiếng nói của nhân dân, là phương tiện để nhân dân bày tỏ khát vọng, mong muốn và nhu cầu chính đáng đối với Đảng, Nhà nước, báo chí, truyền thông luôn đòi hỏi phải có nguồn nhân lực được đào tạo chuyên nghiệp, có phẩm chất, đạo đức, lối sống và năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu hoạt động thực tiễn báo chí, truyền thông trong các giai đoạn cách mạng. Chính vì tầm quan trọng của nguồn nhân lực báo chí, truyền thông nên Đảng, Nhà nước luôn quan tâm đào tạo, quản lý chặt chẽ hệ thống các cơ sở đào tạo, nơi cung cấp chủ yếu nguồn nhân lực cho các cơ quan báo chí, truyền thông.

Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực báo chí, truyền thông ở Việt Nam - những vấn đề đặt ra

Ở Việt Nam hiện nay có hơn 18.000 nhà báo. Nguồn nhân lực hoạt động trong các trong cơ quan báo chí, truyền thông chủ yếu được đào tạo từ các trường chuyên ngành, một bộ phận nhỏ trưởng thành từ thực tiễn, có năng khiếu và say mê nghề báo. Mô hình đào tạo nguồn nhân lực báo chí, truyền thông phổ biến ở Việt Nam hiện nay hướng tới mục tiêu là đào tạo các chuyên gia có kiến thức và kỹ năng chuyên sâu, chuyên biệt về một loại hình báo chí, truyền thông nhất định, như báo in, báo ảnh, báo phát thanh, báo truyền hình, báo mạng và các ngành truyền thông khác. Mô hình đào tạo có tính chuyên biệt như vậy đem lại cho người học những lựa chọn khác nhau, đồng thời tăng cường tính chuyên sâu của mục tiêu đào tạo. Tuy nhiên, mô hình ấy đã bộc lộ nhiều hạn chế bởi sinh viên chỉ thiên về một loại hình, không phù hợp với sự biến đổi mạnh mẽ của báo chí, truyền thông đang phát triển theo hướng hội tụ, đa phương trong giai đoạn hiện nay. Năng lực chuyên môn của sinh viên đang trở nên bất cập so với công nghệ và kỹ năng truyền thông đang phát triển rất nhanh, rất mới, vì vậy, sinh viên khó tiếp cận việc làm trong các cơ quan truyền thông đa phương tiện, các tòa soạn hội tụ đang ngày càng phát triển phổ biến.

Những năm gần đây với sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ truyền thông, mạng in-tơ-nét, thiết bị di động cầm tay... đã làm thay đổi căn bản cấu trúc, phương thức truyền thông, từ quá trình sản xuất chương trình, truyền dẫn, thiết lập tương tác, tiếp nhận thông tin của công chúng. Từ đó xuất hiện ngày càng phổ biến mô hình tòa soạn hội tụ các loại hình báo chí và truyền thông đa phương tiện. Công nghệ truyền dẫn in-tơ-nét và các thiết bị đầu cuối, các phương tiện nghe nhìn hiện đại, tiện ích đã trở thành kênh chính thức để công chúng tiếp nhận và trao đổi thông tin. Từ đó hình thành các loại hình báo chí “phi truyền thống” mạng xã hội như Facebook, Twiter, YouTube... tồn tại cùng báo in, truyền hình, báo phát thanh, báo ảnh. Báo chí truyền thống vì vậy đang đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt với các loại hình báo mạng điện tử và các blog cá nhân về tốc độ truyền tin và khả năng tương tác với công chúng. Sự ra đời của công nghệ truyền thông hiện đại và sự thay đổi của mô hình, phương thức hoạt động của báo chí, truyền thông đồng thời cũng thay đổi phẩm chất của nguồn nhân lực cũng như công chúng. Trong tác nghiệp, các nhà báo cần phải đa kỹ năng để sử dụng các phương tiện khác nhau. Nhà báo có thể hoạt động độc lập với tòa soạn mà vẫn phản ánh kịp thời các sự kiện, chất lượng tốt. Công chúng được tham gia, biểu đạt ý kiến qua phương tiện báo chí, truyền thông, năng lực của công chúng tham gia vào các quá trình truyền thông ngày một nâng cao.

Bối cảnh phát triển chung của báo chí, truyền thông trên thế giới, đang đòi hỏi phải có nhận thức mới về vai trò, sứ mệnh của giáo dục, đào tạo, kết hợp giữa giữa mô hình truyền thống và mô hình hiện đại trong đào tạo nguồn nhân lực. Mấy năm gần đây, một số cơ sở đào tạo báo chí, truyền thông cũng đang chuyển đổi mô hình, đổi mới chương trình, phương thức đào tạo phù hợp với sự thay đổi căn bản của công nghệ truyền thông hiện đại. Chương trình đào tạo chuyển dần từ phương thức đào tạo phân tách sang tích hợp chuyên ngành để đào tạo ra những nhà báo có khả năng tác nghiệp trên các phương tiện truyền thông khác nhau. Đây là sự chuyển đổi cần thiết, tất yếu trước xu hướng tích hợp truyền thông đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Tuy nhiên, quá trình phát triển của báo chí, truyền thông ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra những vấn đề cần phải nhận thức để đổi mới công tác đào tạo.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, báo chí, truyền thông phát triển theo hướng hội tụ, đa phương tiện, nhà báo đa năng kỹ năng, đòi hỏi phải đổi mới nhanh chóng mô hình đào tạo có tính chuyên biệt hiện nay. Các cơ sở đào tạo phải đổi mới chương trình, phương thức đào tạo, tăng cường đầu tư công nghệ truyền thông hiện đại mới bảo đảm được chất lượng lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu thực tiễn báo chí, truyền thông hiện nay.

Sự phát triển báo chí, truyền thông trong điều kiện kinh tế thị trường, sự bùng nổ của của công nghệ truyền thông mới, mạng xã hội... đang tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt về thông tin, nên không ít tờ báo chạy theo xu hướng thị trường thông tin giật gân, câu khách. Một số nhà báo yếu kém về phẩm chất đạo đức, lợi dụng vị thế của báo chí để trục lợi, thậm chí vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Vấn đề đặt ra cho các cơ sở đào tạo hiện nay là không chỉ quan tâm phát triển năng lực, kỹ năng chuyên môn mà còn phải coi trọng giáo dục phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, ý thức công dân và trách nhiệm xã hội cho nguồn nhân lực báo chí, truyền thông.

Báo mạng điện tử cùng với các trang mạng trên in-tơ-nét tạo ra sự tương tác giữa công chúng với tòa soạn và phóng viên ngày càng phổ biến. Sự tham gia, biểu đạt ý kiến của công chúng qua phương tiện báo chí, truyền thông có sức mạnh to lớn đối với sự phát triển xã hội. Vì vậy, đào tạo báo chí, truyền thông cũng cần phải mở rộng đối tượng đào tạo, không chỉ nhằm mục tiêu đào tạo chuyên gia, những nhà báo chuyên nghiệp, mà còn phải đào tạo những “nhà báo công dân”, những người làm báo trong các tổ chức “phi báo chí”, như các mạng xã hội, cổng thông tin điện tử... của các cơ quan, tổ chức hay cá nhân. Điều đó có nghĩa là các trường đào tạo nguồn nhân lực báo chí, truyền thông không chỉ đào tạo những người làm báo chuyên nghiệp mà còn phải đào tạo năng lực truyền thông và phẩm chất báo chí cho công chúng, để họ tham gia vào quá trình truyền thông xã hội một cách lành mạnh, tích cực.

Do áp lực sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông mới, các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực báo chí, truyền thông đang đổi mới mô hình đào tạo ở mức độ khác nhau, nhưng còn chậm và mang tính tự phát, thiếu đồng bộ... còn nhiều khoảng trống về sự lãnh đạo, quản lý về chiến lược đổi mới, phát triển các mô hình đào tạo tiên tiến, cũng như cơ cấu lại hệ thống báo chí, truyền thông hiện nay. Nhiều vấn đề chưa được nghiên cứu đầy đủ, nhiều khâu đổi mới nhưng chưa đầy đủ cơ sở khoa học. Vì vậy, để giáo dục đào tạo nguồn nhân lực bắt kịp với trình độ chung của thế giới, cần phải có sự nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn của thế giới, xác định rõ quy luật phát triển, xây dựng các mô hình đào tạo phù hợp.

Điều kiện phát triển của báo chí, truyền thông đa phương tiện, với các quá trình thu thập thông tin, sáng tạo tác phẩm, truyền phát, tiếp nhận thông tin... đòi hỏi sinh viên phải có kiến thức rộng có tính chất liên ngành và phải có năng lực sử dụng công nghệ truyền thông hiện đại. Tuy nhiên, nhìn chung các cơ sở đào tạo hiện nay còn thiếu các phòng thực hành, trong chương trình đào tạo thiên về giáo dục đại cương, nặng truyền thụ kiến thức, ít chú trọng kỹ năng thực hành. Vì vậy, các cơ sở đào tạo cần phải chú trọng giáo dục kỹ năng thực hành, tăng cường các phương tiện thực hành đa phương tiện, như các studio phát thanh, truyền hình, tư liệu ảnh, phòng biên tập đa phương tiện (ảnh, video, audio), các mô hình thực nghiệm sản xuất chương trình... để sinh viên hình thành đầy đủ kỹ năng thiết kế sáng tạo, kỹ năng biểu cảm bằng âm thanh, hình ảnh, độc lập, tự chủ xây dựng tác phẩm, truyền dẫn, thiết lập sự tương tác với công chúng.

Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực báo chí, truyền thông ở Việt Nam

Đáp ứng yêu cầu của sự phát triển báo chí, truyền thông, các cơ sở đào tạo phải tích cực đổi mới căn bản, toàn diện các mặt hoạt động của nhà trường với các giải pháp chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, đổi mới mô hình đào tạo nguồn nhân lực báo chí, truyền thông thích ứng với nhu cầu xã hội trong bối cảnh báo chí, truyền thông đang có sự chuyển đổi mạnh mẽ. Sự thay đổi báo chí, truyền thông hiện nay đang tạo ra áp lực đối với các cơ sở đào tạo, bởi chương trình đào tạo, mô hình đào tạo hiện nay không còn khả năng để thích ứng với nhu cầu phát triển của phương tiện truyền thông đang thay đổi nhanh chóng. Các cơ sở đào tạo cần nhận thức rõ tình hình, rà soát lại mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo, mô hình đào tạo, bám sát yêu cầu phát triển của báo chí, truyền thông để đổi mới, tập trung vào trang bị kiến thức và kỹ năng chuyên ngành, tăng cường kỹ năng thực hành, nâng cao tính chủ động, kỹ năng đa phương tiện của sinh viên để đáp ứng với nhu cầu sử dụng lao động của các cơ quan báo chí, truyền thông.

Thứ hai, tăng cường xây dựng cơ sở thực hành, đổi mới phương pháp đào tạo. Cần phải đổi mới phương pháp đào tạo, khắc phục tình trạng “dạy chay, học chay”, nặng về đào tạo lý thuyết, ít thực hành kỹ năng nghiệp vụ. Đào tạo nguồn nhân lực báo chí, truyền thông là định hướng ứng dụng, vì vậy sinh viên phải được học tập trong các phòng học và studio mô phỏng mô hình tòa soạn. Sinh viên tham gia vào tất cả các khâu của quy trình sản xuất sản phẩm truyền thông để làm quen với các kỹ năng sáng tạo và làm việc nhóm. Sinh viên còn được khuyến khích tham gia sản xuất và phát hành các tờ báo, chương trình phát thanh, truyền hình, mạng nội bộ làm cơ sở thực hành kỹ năng và giới thiệu tác phẩm. Mặt khác, để khắc phục sự bất cập về năng lực thực hành nghề nghiệp trong bộ phận giảng viên cơ hữu, các trường cần có chế độ mời các chuyên gia cao cấp ở các cơ quan báo chí, truyền thông có uy tín làm giảng viên thỉnh giảng, giảng viên kiêm nhiệm, đồng thời gửi giáo viên trẻ thiếu kinh nghiệm đi thực tế tại các cơ quan báo chí, truyền thông.

Thứ ba, coi trọng giáo dục phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm xã hội, kỹ năng công nghệ thông tin, ngoại ngữ cho sinh viên. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ truyền thông mới hiện nay, đào tạo nguồn nhân lực báo chí, truyền thông càng phải hết sức chú trọng đến việc hình thành nhân sinh quan, thế giới quan, phương pháp luận khoa học, các giá trị cốt lõi, khơi dậy ý thức trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, để hình thành những phẩm chất tốt đẹp, biết phân biệt đúng sai, có phương pháp nhận thức khoa học, tư duy độc lập, sáng tạo cho sinh viên. Mặt khác, hoạt động báo chí, truyền thông đa phương tiện, trong môi trường hội nhập quốc tế, sinh viên cần được đào tạo tin học, ngoại ngữ có tính ứng dụng cao. Vì vậy, phải chuẩn hóa tin học và ngoại ngữ, coi đó là yêu cầu và điều kiện bắt buộc của nguồn nhân lực báo chí, truyền thông hiện nay.

Thứ tư, tăng cường hướng nghiệp, giúp sinh viên có nhận thức đúng về sự nghiệp báo chí, truyền thông. Việc chọn nghề báo chí, truyền thông của sinh viên nếu không được hướng nghiệp đúng đắn sẽ gây sự mơ hồ trong nhận thức quyền lực của báo chí và nhà báo. Nếu không được giáo dục, định hướng nghề nghiệp một cách nghiêm túc, sinh viên ra trường sẽ ngộ nhận, lệch lạc, lạm dụng danh nghĩa báo chí để trục lợi, vi phạm đạo đức, pháp luật. Vì vậy, cần phải tăng cường giáo dục kỹ năng mềm thông qua các chủ đề giáo dục, tư vấn cá nhân, hội thảo, tọa đàm, trao đổi để định hướng nghề nghiệp chân chính cho sinh viên. Mặt khác, công nghệ báo chí, truyền thông đang thay đổi liên tục, nhanh chóng, tố chất của công chúng truyền thông ngày càng nâng cao, nên kiến thức học tập trong nhà trường là không đủ, các trường cần trang bị cho người học khả năng tự học, tự bồi dưỡng, khả năng tiếp cận, tiếp thu công nghệ mới cho sinh viên.

Thứ năm, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan báo chí, truyền thông theo hướng xã hội hóa quá trình đào tạo để nâng cao chất lượng, đồng thời nâng cao khả năng tìm việc làm của sinh viên. Các cơ sở đào tạo cần có kế hoạch hợp tác, xây dựng quy chế phối hợp đào tạo, nghiên cứu khoa học với các cơ quan báo chí, truyền thông, thường xuyên cho sinh viên tiếp cận thực tế, thực hành trên thực địa, qua đó còn tạo cơ hội cho sinh viên tìm việc sau khi tốt nghiệp.

Thứ sáu, tăng cường nghiên cứu khoa học lĩnh vực báo chí, truyền thông làm cơ sở cho việc xây dựng chiến lược, lộ trình đổi mới hệ thống báo chí, truyền thông cũng như mô hình, phương thức đào tạo nguồn nhân lực. Phải đầu tư nghiên cứu khoa học, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trong nước và thế giới, xác lập cơ sở lý luận khoa học cho việc cơ cấu lại hệ thống báo chí, truyền thông, cũng như xây dựng mô hình đào tạo nguồn nhân lực báo chí, truyền thông hiện nay. Khắc phục sự đổi mới thiếu đồng bộ, chắp vá, làm cho nền báo chí, truyền thông và hệ thống đào tạo nguồn nhân lực lạc hậu xa so với thế giới.

Thứ bảy, tăng cường hội nhập quốc tế. Các cơ sở đào tạo cần tích cực trao đổi, học tập kinh nghiệm quốc tế, chuẩn bị điều kiện để triển khai các chương trình đào tạo liên kết quốc tế, các chương trình chất lượng cao, hướng tới đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao có khả năng tác nghiệp trong môi trường truyền thông quốc tế đang biến đổi, hội nhập toàn cầu. Việc hợp tác giữa các cơ sở đào tạo trong khu vực và trên thế giới còn giúp đội ngũ giảng viên chia sẻ tri thức, trao đổi kinh nghiệm, đồng thời còn tăng cường giao lưu văn hóa vì sự phát triển, hòa bình và ổn định trong khu vực và trên thế giới./.