Chính sách đồng minh trong chiến lược châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ và những điều chỉnh hiện nay

Nguyễn Thu Phương
NCS, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
22:16, ngày 15-08-2019

TCCS - Trong hơn một thập niên trở lại đây, khu vực châu Á - Thái Bình Dương luôn nằm trong ưu tiên chiến lược của Mỹ. Để thực hiện chiến lược châu Á  - Thái Bình Dương, một trong những chính sách đối ngoại hữu hiệu hỗ trợ Mỹ là củng cố, tăng cường quan hệ vốn có với các nước đồng minh về an ninh, quân sự - điểm tựa vững chắc của Mỹ ở khu vực. Và việc điều chỉnh chính sách đồng minh ở mỗi giai đoạn có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, duy trì vai trò, ảnh hưởng của Mỹ trước những biến động phức tạp, khó lường của khu vực.

Tổng thống Mỹ Donald Trump (trái), Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe (giữa) và Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi (phải) đã có cuộc gặp bên lề Hội nghị thượng đỉnh G20 diễn ra tại Nhật Bản, ngày 28-6-2019_Nguồn: pmindia.gov.in

Điểm tựa vững chắc cho chiến lược “tái cân bằng” châu Á - Thái Bình Dương

Ngày 17-11-2011, Tổng thống Mỹ B. Ô-ba-ma đã phát biểu trước Quốc hội Ô-xtrây-li-a nhân chuyến thăm nước này về tầm quan trọng và ưu tiên hàng đầu của Mỹ đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là cam kết về an ninh quân sự. Tiếp đó, tháng 1-2012, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ L. Pa-ne-ta (L. Panetta) đã ban hành một bản hướng dẫn chiến lược mới, chính thức xác định việc “tái cân bằng” khu vực châu Á - Thái Bình Dương là một ưu tiên chủ chốt của Mỹ. Theo Báo cáo “Duy trì sự lãnh đạo toàn cầu của Mỹ: Các ưu tiên cho thế kỷ XXI”, các lợi ích an ninh, chính trị, kinh tế của Mỹ liên quan chặt chẽ với các diễn biến ở khu vực. Do đó, trong khi quân đội Mỹ tiếp tục đóng góp vào an ninh toàn cầu, Mỹ sẽ cần phải “tái cân bằng” châu Á - Thái Bình Dương, bởi Mỹ là “một quốc gia Thái Bình Dương”, quan hệ của Mỹ với các nước đồng minh và các đối tác chủ chốt ở châu Á vốn rất quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của khu vực, và trên hết là lợi ích của Mỹ tại khu vực là không thể bỏ qua. 

Thực tế chứng minh trong hơn nửa thế kỷ qua, các nước đồng minh của Mỹ đã góp phần bảo đảm hòa bình và an ninh khu vực, định hình môi trường tăng trưởng kinh tế; thúc đẩy sự hiện diện, tăng cường sự lãnh đạo khu vực của Mỹ tại những thời điểm xuất hiện các thách thức an ninh truyền thống. Vì vậy, theo Cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống B. Ô-ba-ma, T. Đô-ni-lân (T. Donilon), một trong những trụ cột chiến lược của Mỹ là tiếp tục củng cố quan hệ với các nước đồng minh truyền thống. Mỹ cần dựa vào những “chân kiềng” đồng minh vững chắc. Các liên minh hiệp ước của Mỹ với Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Phi-líp-pin và Thái Lan là “điểm tựa” cho bước ngoặt chiến lược của Mỹ “trở lại” châu Á - Thái Bình Dương.

Theo đó, Chính quyền của Tổng thống B. Ô-ba-ma nhấn mạnh tới chính sách đồng minh với những bước triển khai cụ thể và khá toàn diện: Tăng cường các mối quan hệ đồng minh an ninh song phương với các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Thái Lan, Phi-líp-pin trên cơ sở duy trì đồng thuận về chính trị với các giá trị cốt lõi của quan hệ đồng minh; bảo đảm quan hệ đồng minh linh hoạt và có tính thích nghi để đối phó thành công với những thách thức mới cũng như tận dụng cơ hội mới; bảo đảm khả năng phòng thủ và hạ tầng thông tin để có thể răn đe bất cứ sự khiêu khích của các nhà nước và thực thể phi nhà nước.

Bước vào những năm đầu thế kỷ XXI, tại khu vực Đông Bắc Á, Mỹ coi sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên là các mối đe dọa đối với an ninh quốc gia của Mỹ. Xem xét từ ý nghĩa truyền thống, đồng minh Mỹ - Hàn Quốc chủ yếu là ứng phó với “mối đe dọa từ CHDCND Triều Tiên”, song cùng với sự điều chỉnh chiến lược châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ thúc đẩy điều chỉnh theo hướng đồng minh Mỹ - Hàn Quốc hỗ trợ và kết nối với đồng minh Mỹ - Nhật Bản, răn đe cả CHDCND Triều Tiên và Trung Quốc. Mỹ tăng cường thực hiện cam kết an ninh với các nước đồng minh này, đồng thời thúc đẩy nâng cấp quan hệ đồng minh, xây dựng cơ chế phối hợp ba bên Mỹ - Nhật Bản - Hàn Quốc, tham gia khuôn khổ an ninh khu vực Đông Bắc Á.

Trong liên minh Mỹ - Nhật Bản - “hòn đá tảng” của Mỹ trong việc bảo đảm hòa bình và ổn định trong khu vực - hai bên chia sẻ tầm nhìn chung về trật tự khu vực ổn định với các quy tắc rõ ràng, từ tự do hàng hải đến thị trường mở và cạnh tranh công bằng. Mỹ ký kết một thỏa thuận mới bảo đảm sự hiện diện thường trực của các lực lượng quân đội Mỹ tại Nhật Bản, mở rộng các hoạt động tình báo, giám sát và trinh sát nhằm ngăn chặn và phản ứng nhanh trước những thách thức về bảo mật, cũng như chia sẻ thông tin để giải quyết các mối đe dọa không gian mạng. Đồng thời, Mỹ ủng hộ Nhật Bản thay đổi cách diễn giải Hiến pháp, qua đó dỡ bỏ sự hạn chế đối với việc thực hiện phòng vệ tập thể. 

Tương tự như vậy, liên minh của Mỹ với Hàn Quốc trở nên mạnh mẽ hơn và tích hợp nhiều hoạt động. Hai bên đã tiến hành đàm phán sửa đổi và ký kết Hiệp ước an ninh mới. Mỹ tiếp tục xây dựng năng lực cho lực lượng quân đội Hàn Quốc trong việc chuyển giao Quyền chỉ huy thời chiến (OPCOM); duy trì lực lượng quân sự của Mỹ tại nước này; tăng cường diễn tập, bố trí trang bị vũ khí. Đặc biệt, Mỹ thúc đẩy việc ký kết triển khai Hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao (THAAD) giai đoạn cuối với Hàn Quốc. Mỹ triển khai hệ thống này nhằm hợp nhất toàn diện các hệ thống phòng thủ tên lửa của mình ở Đông Bắc Á, nâng cao năng lực cảnh báo sớm mang tính chiến lược.

Tại Đông Nam Á, Mỹ tăng cường liên minh với Phi-líp-pin và Thái Lan. Mỹ coi quan hệ với Phi-líp-pin đóng vai trò quan trọng đối với nỗ lực bảo đảm ổn định, thịnh vượng ở Tây Thái Bình Dương. Tháng 7-2011, Hạ viện Mỹ thông qua Nghị quyết số 352, trong đó nhắc lại việc Mỹ sẵn sàng cung cấp khí tài quân sự để hiện đại hóa quân đội Phi-líp-pin. Với Tuyên bố Ma-ni-la (tháng 11-2011), Mỹ và Phi-líp-pin khẳng định tầm quan trọng của quan hệ đồng minh chiến lược cũng như chia sẻ lợi ích chung trong việc duy trì tự do hàng hải và tôn trọng luật pháp quốc tế. Trên cơ sở Đối thoại chiến lược Mỹ - Phi-líp-pin (tháng 1-2012) nhấn mạnh mở rộng liên minh nhằm đối phó với các thách thức của thế kỷ XXI, Mỹ thông qua các chương trình hỗ trợ quân sự, bảo đảm an ninh tại Phi-líp-pin. Tháng 4-2014, nhân chuyến thăm Phi-líp-pin của Tổng thống B. Ô-ba-ma, hai bên ra tuyên bố thỏa thuận quốc phòng song phương mới cho phép quân đội Mỹ tăng cường sự hiện diện lưu động tại Phi-líp-pin.

Với Thái Lan - đối tác hiệp ước lâu đời nhất của Mỹ ở châu Á, Mỹ và Thái Lan đã ký kết “Tuyên bố tầm nhìn chung đồng minh quốc phòng Mỹ - Thái Lan” (năm 2012), tái khẳng định Thái Lan là đồng minh ngoài NATO của Mỹ với bốn nội dung chính: Đối tác xây dựng an ninh trong khu vực Đông Nam Á; hỗ trợ giữ vững ổn định khu vực châu Á - Thái Bình Dương; sẵn sàng và nâng cao mức độ song phương và đa phương; phát triển, phối hợp và hợp tác Mỹ - Thái Lan ở các cấp.

Mỹ cũng mở rộng liên minh với Ô-xtrây-li-a từ quan hệ đối tác Thái Bình Dương sang đối tác Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Đây thực sự là mối quan hệ đối tác mang tính toàn cầu. Mỹ tiến hành bố trí lực lượng quân sự và trang thiết bị hiện đại ở Ô-xtrây-li-a; thiết lập hệ thống trinh sát, do thám vũ trụ hiện đại để giám sát các hoạt động quân sự ở khu vực. Theo Bộ Quốc phòng Mỹ, kể từ khi công bố chiến lược “tái cân bằng” châu Á - Thái Bình Dương, thủy quân lục chiến của Mỹ đã được huy động đến Đác-uyn (Ô-xtrây-li-a). Cụ thể, tháng 4-2012, 200 lính thủy đánh bộ Mỹ đã tới Đác-uyn; tháng 4-2013 là 250 lính, tháng 4-2014 là 1.150 lính(1). Ngoài ra, Mỹ còn chi 70 triệu USD đã được cam kết để thực hiện triển khai lực lượng không quân Mỹ ở Ô-xtrây-li-a(2). Chính quyền của Tổng thống B. Ô-ba-ma nhấn mạnh các nỗ lực gia tăng sự hiện diện luân phiên của thủy quân lục chiến Mỹ ở Đác-uyn nhằm giúp gìn giữ hòa bình và ổn định trên toàn khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tăng cường khả năng của các lực lượng quân đội Mỹ và Ô-xtrây-li-a phản ứng nhanh, ứng phó với các thách thức trong khu vực. 

Tiếp tục đề cao vai trò hệ thống đồng minh ở khu vực

Tại Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) được tổ chức ở Việt Nam (tháng 11-2017), Tổng thống Mỹ Đ. Trăm đã đề cập đến thuật ngữ “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” trong chiến lược xây dựng một khu vực “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở”. Cụm từ tiếp tục xuất hiện nhiều lần trong Chiến lược An ninh quốc gia Mỹ (NSS) như một điểm nhấn trong chiến lược mới của Mỹ đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương trên cơ sở tiếp tục khẳng định vai trò của khu vực đối với lợi ích quốc gia của Mỹ. Và một trong những nội dung chính của chính sách “tái cân bằng” châu Á - Thái Bình Dương được tiếp tục thực hiện dưới thời Tổng thống Đ. Trăm, đó là tăng cường các mối quan hệ đồng minh song phương truyền thống; kiềm chế sức mạnh quân sự của các cường quốc trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc, thông qua các liên minh quân sự thân cận truyền thống này.

Trong bản Chiến lược An ninh quốc gia được đưa ra vào tháng 12-2017(3), Tổng thống Đ. Trăm tiếp tục đề cao vai trò của hệ thống đồng minh ở khu vực. Chiến lược Quốc phòng năm 2018 cũng xác định, Mỹ sẽ củng cố quan hệ với các nước đồng minh và với các đối tác ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương thành một cấu trúc an ninh liên kết có khả năng ngăn chặn hành động xâm lược, duy trì ổn định và bảo đảm tự do tiếp cận các môi trường chung(4). Còn trong bài phát biểu tại Đối thoại Sang-gri La (tháng 6-2018), Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ G. Ma-tít (J. Mattis) tóm tắt chiến lược Ấn Độ Dương  - Thái Bình Dương của Chính quyền của Tổng thống Đ. Trăm có nội dung then chốt về việc mở rộng khả năng tương tác và thiết lập một mạng lưới các đồng minh làm việc cùng nhau để tăng cường sự tin tưởng lẫn nhau giữa các quân đội.

Triển khai trên thực tế, Chính quyền của Tổng thống Đ. Trăm điều chỉnh chính sách an ninh, quân sự theo hướng cứng rắn hơn với việc thay đổi về cấu trúc an ninh - quân sự do Mỹ đứng đầu và tính chất mối quan hệ đồng minh trong khu vực. Với mục tiêu “Nước Mỹ trước tiên” (America First) xuyên suốt trong chính sách của Tổng thống Đ.  Trăm, Mỹ thiết lập “mạng lưới an ninh có nguyên tắc”. Đây thực chất là việc tạo dựng một tập hợp lực lượng giữa những nước cùng có mối lo ngại về “sự trỗi dậy” của Trung Quốc, về vấn đề hạt nhân chưa thể kiểm soát được của CHDCND Triều Tiên, vẫn cần sự can dự của Mỹ. Tuy nhiên, đối với các nước đồng minh khu vực, Mỹ thực hiện một số điều chỉnh.

Một là, yêu cầu các nước đồng minh phải gánh vác trách nhiệm cao hơn trước những bất ổn trong khu vực, đồng thời chia sẻ chi phí cho việc bảo đảm an ninh của những nước này thông qua tăng chi phí cho lực lượng đồn trú của Mỹ ở khu vực. 

Nhìn lại lịch sử hình thành các hiệp ước đồng minh an ninh quân sự do Mỹ ký kết nói chung, cũng như dưới thời Tổng thống B. Ô-ba-ma nói riêng có thể thấy rõ, việc bảo đảm an ninh và ổn định phát triển cho các đồng minh là một nội dung tất yếu trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Trong nhiều năm, Mỹ đã thiết lập tại khu vực vai trò trung tâm, là cái “ô bảo trợ an ninh” đối với các nước đồng minh thông qua việc cam kết hỗ trợ những khoản chi phí quốc phòng khổng lồ. Tuy nhiên, trước bối cảnh Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ, cần bảo đảm thế và lực không bị suy yếu, Chính quyền của Tổng thống Đ. Trăm đã chọn phương cách buộc các nước đồng minh phải chia sẻ nhiều hơn trách nhiệm trong các vấn đề khu vực, giảm thiểu gánh nặng chi phí cho các hoạt động an ninh, quốc phòng mà Mỹ cam kết trước đó. Chính sách này vừa tạo điều kiện cho các nước đồng minh khẳng định sự lớn mạnh về an ninh, quân sự, vừa tăng cường năng lực cần thiết ứng phó trước các mối đe dọa của khu vực. Ngoài ra, việc giảm chi phí cam kết an ninh, quốc phòng giúp Mỹ tập trung hơn vào các hạng mục khác, như nâng cấp sức mạnh quân sự quốc gia.

Mỹ khuyến khích Nhật Bản gánh vác vai trò quốc tế lớn hơn mặc dù hiện nay nước này có đóng góp chi phí quốc phòng lớn nhất cho Mỹ. Mỹ cũng yêu cầu Hàn Quốc tăng chi phí cho việc đóng quân và triển khai THAAD ở Hàn Quốc. Tháng 3-2019, Mỹ và Hàn Quốc đã ký thỏa thuận chính thức về việc chia sẻ chi phí để duy trì hoạt động của lực lượng quân đội Mỹ tại Hàn Quốc (USFK). Theo thỏa thuận, Hàn Quốc sẽ tăng 8,2% chi phí đóng góp để duy trì hoạt động của USFK. Trước đó, Hàn Quốc cũng đã nhất trí chi 1.040 tỷ uôn (920 triệu USD) trong năm 2019 cho các hoạt động của USFK gồm 28.500 binh sĩ Mỹ, tăng từ mức 960 tỷ uôn của năm 2018(5).

Hai là, trấn an các đồng minh trước mối nghi ngại về cam kết bảo trợ an ninh của Mỹ đối với khu vực, về tầm quan trọng của các đồng minh trong chính sách đối ngoại của Mỹ, cũng như trước sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực.

Vị trí dẫn dắt của Mỹ tại khu vực, trong đó có việc bảo đảm an ninh và mang lại sự ổn định cho các đồng minh dường như bị lung lay sau những tuyên bố về “Nước Mỹ trước tiên” của Tổng thống Đ. Trăm. Những đòi hỏi có phần cứng rắn và gay gắt của Mỹ đối với các đồng minh trong việc đóng góp về viện trợ quân sự hay hậu thuẫn trong các trường hợp cần thiết đã gây một số phản ứng từ chính các nước này. Chưa kể, dấu hiệu xói mòn những cam kết bảo trợ an ninh tập thể của Mỹ khiến cho các nước đồng minh của Mỹ có thiên hướng chuyển sang hợp tác với Trung Quốc.

Thực tế này buộc Chính quyền của Tổng thống Đ. Trăm phải có những động thái mang tính xoa dịu tâm lý của các nước đồng minh thông qua các hoạt động ngoại giao. Tháng 11-2017, Tổng thống Đ.  Trăm có chuyến công du châu Á đầu tiên kể từ khi lên nắm quyền nhằm nhấn mạnh cam kết về mối liên minh và đối tác lâu dài, đồng thời tái khẳng định sự lãnh đạo của Mỹ. Ngoài ra còn có các chuyến thăm của Ngoại trưởng Mỹ R.  Ti-lơ-xơn (R. Tillerson) đến Hàn Quốc (tháng 3-2017), Phi-líp-pin, Thái Lan (tháng 8-2017); Ngoại trưởng Mỹ M.  Pom-peo (M.  Pompeo) tới Hàn Quốc, Nhật Bản (tháng 10-2018). Đáng chú ý, mới đây Tổng thống Đ. Trăm đã có chuyến thăm Nhật Bản (tháng 5-2019) nhằm củng cố vững chắc quan hệ đồng minh, mà một trong những nội dung quan trọng là thống nhất các chiến lược an ninh tại châu Á - Thái Bình Dương. 

Bên cạnh đó, Mỹ tiếp tục chứng minh vai trò và tầm ảnh hưởng của mình thông qua các khoản hỗ trợ về quân sự và tài chính với chương trình đầu tư trị giá gần 120 triệu USD năm 2018 dành cho kế hoạch phát triển kết cấu hạ tầng tại khu vực. Một cam kết trong vòng 5 năm cũng được Mỹ đưa ra với tên gọi “Sáng kiến Trấn an châu Á” (ARIA) có trị giá lên đến 1,5 tỷ USD cho giai đoạn 2019 - 2023 với thông điệp trấn an các đồng minh, đối tác bằng cam kết hỗ trợ, hợp tác lâu dài, nghiêm túc, đáng tin cậy(6).

Ba là, tăng cường các liên minh đa phương thông qua các đồng minh vốn có để tìm kiếm thêm đối tác nhằm cạnh tranh trực diện với Trung Quốc, ủng hộ sáng kiến mô hình liên kết mới trong khu vực.

Thể hiện rõ nét của chính sách này là việc Mỹ lấy “tứ giác kim cương” bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Ô-xtrây-li-a làm nòng cốt nhằm đối trọng với Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI) của Trung Quốc. Nhóm “bộ Tứ” là một cơ chế đối thoại an ninh được thiết lập từ năm 2007 trên nền tảng các cơ chế an ninh ba bên Mỹ - Nhật Bản - Ô-xtrây-li-a và Mỹ - Nhật Bản - Ấn Độ, nhưng chưa được vận hành thực chất. Trong bối cảnh Trung Quốc trỗi dậy, quyết tâm mở rộng tầm ảnh hưởng với các chiến lược lớn về “kết nối hai đại dương” và Sáng kiến BRI, va chạm trực diện lợi ích của bốn quốc gia này tại khu vực khiến cho liên kết an ninh bốn bên được khởi động lại bên lề Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) được tổ chức ở Phi-líp-pin tháng 11-2017. Trong nhóm này, Nhật Bản và Ô-xtrây-li-a là hai đồng minh chiến lược của Mỹ, còn Ấn Độ không chỉ là cường quốc lớn tại châu Á, mà còn là một nhân tố được xem là có tính cạnh tranh ảnh hưởng với Trung Quốc tại khu vực. 

Bốn là, tiếp tục thực hiện cơ chế hóa quan hệ với các đồng minh, tích cực tăng cường các biện pháp quân sự tại khu vực.

Các cơ chế hiện có, như Đối thoại ba bên Mỹ - Nhật Bản - Hàn Quốc, Mỹ - Nhật Bản - Ô-xtrây-li-a, Mỹ - Ấn Độ - Ô-xtrây-li-a; Đối thoại cấp bộ trưởng quốc phòng, ngoại giao “2+2” Mỹ - Nhật Bản, Mỹ - Ô-xtrây-li-a, Mỹ - Ấn Độ; Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ  - ASEAN;... được Mỹ tiếp tục duy trì, thúc đẩy.

Đối với những biện pháp quân sự mạnh mẽ, Chính quyền của Tổng thống Đ. Trăm đề cao tầm quan trọng của hoạt động tuần tra tự do hàng hải (FONOP) ở Biển Đông. Bên lề Diễn đàn đối thoại Sang-gri La ở Xin-ga-po (tháng 6-2017), Đô đốc H. Ha-ri (H. Harris) khẳng định, FONOP là hoạt động “hợp thức hóa luật pháp quốc tế”. Từ tháng 5-2017 đến tháng 1-2019, Mỹ đã tiến hành 10 FONOP ở Biển Đông. 

Về diễn tập quân sự, Mỹ duy trì các cuộc tập trận song phương và đa phương với các đồng minh khu vực, như các cuộc tập trận “Hổ mang vàng” với Thái Lan (tháng 2-2019), “Balikatan” với Phi-líp-pin (tháng 4-2019). Tháng 3-2019, Mỹ và Hàn Quốc tiến hành cuộc tập trận phối hợp mới mang tên “Đồng minh” thay cho các cuộc tập trận chung “Đại bàng non” và “Giải pháp then chốt” đã chấm dứt trước đó để thúc đẩy đàm phán ngoại giao về phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên. Bên cạnh đó, hải quân Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Ô-xtrây-li-a tiến hành cuộc tập trận “Đội tiên phong Thái Bình Dương” (Pacific Vanguard) (tháng 5-2019). 

Mỹ cũng đã thực hiện các thương vụ hỗ trợ các đồng minh chủ chốt. Tháng 5-2019, Mỹ thông qua thương vụ trị giá hơn 600 triệu USD bán tên lửa phòng không cho Hàn Quốc và Nhật Bản. Cụ thể, Mỹ bán cho Hàn Quốc 94 tên lửa hạm đối không SM-2, 12 hệ thống dẫn đường với tổng trị giá 313,9 triệu USD; đồng ý bán 160 tên lửa phòng không AMRAAM và thiết bị dẫn đường liên quan cho Nhật Bản trị giá 317 triệu USD(7). 

Tóm lại, chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Chính quyền của Tổng thống Đ. Trăm về cơ bản có tính kế thừa từ chiến lược “tái cân bằng” châu Á - Thái Bình Dương của chính quyền tiền nhiệm trong chính sách đối với các đồng minh khu vực. Qua đó, Mỹ tiếp tục giành được sự ủng hộ, hợp tác ở mức độ khác nhau từ các nước đồng minh. Tuy nhiên, việc triển khai chính sách này có tác động cả tích cực lẫn tiêu cực đến các đồng minh, và cùng với sự gia tăng cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc, môi trường an ninh khu vực sẽ còn đứng trước nhiều thách thức, tác động mạnh mẽ đến an ninh, lợi ích và chính sách đối ngoại của nhiều nước. Vì vậy, Chính quyền của Tổng thống Đ. Trăm sẽ phải đối mặt với thực tế rằng, các nước trong khu vực nói chung, các nước đồng minh của Mỹ nói riêng sẽ có những điều chỉnh, lựa chọn những điều kiện thuận lợi để tiếp tục mở rộng quan hệ với Mỹ và cả với Trung Quốc nhằm phục vụ lợi ích quốc gia của mình./.

------------------------------------------

(1) Australian Defence Facilities: “US Marine Rotational Force-Darwin”, Nautilus Institute, September 30, 2013, http://nautilus.org/briefing-books/australian-defence-facilities/us-marine-rotationalforce-darwin/
(2) “Fact Sheet: The Fiscal Year 2014 Federal Budget and the Asia-Pacific,” The White House, April 12, 2013, http://www.whitehouse.gov/sites/default/files/docs/asia_pacific_rebalance_factsheet_20130412. pdf
(3) The White House: National Security Strategy of the United States of America, năm 2017
(4) Summary of the 2018 National Defense Strategy of The United States of America, Sharpening the American Milirary’s Competitive Edge, 2017
(5) “Mỹ và Hàn Quốc ký thỏa thuận chia sẻ chi phí quốc phòng”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 8-3-2019
(6) Thông điệp kép từ Đạo luật Sáng kiến Trấn an châu Á của Mỹ, http://nghiencuuquocte.org/2019/01/04/thong-diep-kep-tu-dao-luat-sang-kien-tran-an-chau-a-cua-my/, ngày 4-1-2019
(7) “Mỹ thông qua thương vụ hơn 600 triệu USD bán tên lửa cho Hàn Quốc và Nhật Bản”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 18-5-2019