Quan điểm của C. Mác về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị

Lê Thị Thanh Hà TS, Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
20:43, ngày 30-06-2017

TCCS - Quá trình đổi mới của nước ta hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, trong đó có vấn đề “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”(1)... Việc nghiên cứu quan điểm của C. Mác về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị để trên cơ sở đó cung cấp cho chúng ta phương pháp luận nhằm giải quyết tốt mối quan hệ này ở nước ta là cần thiết.

C. Mác và Ph. Ăng-ghen cho rằng, việc sản xuất ra của cải vật chất luôn luôn được lặp đi, lặp lại, hoặc ở trình độ tái sản xuất giản đơn, hoặc ở trình độ tái sản xuất mở rộng. Trong mỗi quá trình sản xuất như vậy, người lao động, một mặt, có mối quan hệ với tự nhiên; mặt khác, có mối quan hệ với nhau. C. Mác gọi đây là quan hệ “song trùng”. Hai loại quan hệ đó tạo thành hai mặt của phương thức sản xuất - lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự tương tác qua lại giữa chúng chính là quan hệ kinh tế. Khái quát thực tế này, C. Mác viết: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội”(2). Khẳng định điều này, C. Mác đã chỉ cho chúng ta thấy, kinh tế là tổng thể các quan hệ sản xuất nhất định trong lịch sử phù hợp với mỗi trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Đó là toàn bộ hoạt động của con người trong quá trình sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. Theo đó, có thể hiểu, kinh tế là những cách thức và phương thức của con người trong một xã hội nhất định, dùng để sản xuất và trao đổi sản phẩm với nhau.

Khi bàn về chính trị, C. Mác khẳng định: “Toàn bộ những quan hệ ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”(3). Điều này cho thấy, chính trị ở đây được C. Mác xem xét dưới khía cạnh kiến trúc thượng tầng chính trị, và nói đến kiến trúc thượng tầng chính trị là nói đến quyền tác động, chi phối, thống trị của một giai cấp đối với toàn bộ xã hội. Nói cách khác, chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, giữa các quốc gia có liên quan đến vấn đề giành, giữ và sử dụng chính quyền nhà nước. Do vậy, điều quan trọng nhất của chính trị là quyền lực chính trị, chính quyền nhà nước, sự tham gia công việc nhà nước, việc quy định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là cơ quan có vai trò đặc biệt trong kiến trúc thượng tầng chính trị, tiêu biểu cho chế độ chính trị hiện tồn. Nhờ có nhà nước mà giai cấp thống trị không chỉ thống trị xã hội về mặt kinh tế, mà còn thống trị xã hội về mặt chính trị, tư tưởng.

Theo C. Mác, giữa kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó, quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất là những quan hệ xã hội cơ bản, quyết định mọi quan hệ về chính trị, pháp luật, tư tưởng... Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội. Mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, quyết định mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Cuộc đấu tranh trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng là biểu hiện của những mâu thuẫn trong đời sống kinh tế. C. Mác viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung”(4). Cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội không chỉ sản sinh ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng, quy định tính chất của nền chính trị, mà còn quyết định sự xuất hiện và biến đổi cơ cấu giai cấp, quyết định bản chất của chế độ chính trị - xã hội, quyết định giai cấp nào giữ vai trò thống trị về chính trị.

Vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị còn thể hiện ở chỗ, nếu kinh tế thay đổi thì sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi của tư tưởng chính trị và thể chế chính trị. Quá trình đó không chỉ diễn ra trong giai đoạn chuyển tiếp có tính cách mạng - từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn được thực hiện ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội, do đó, “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”(5). Bởi vì, kinh tế là nội dung, là thước đo tính hợp lý của chính trị, còn chính trị là hình thức biểu hiện của kinh tế. Tương ứng với một trình độ phát triển nhất định của kinh tế có một trình độ phát triển nhất định về chính trị. Cơ sở kinh tế như thế nào thì cơ cấu thể chế chính trị cũng tương ứng như thế ấy. Sự biến đổi, phát triển của kinh tế là nguồn gốc sâu xa của mọi biến đổi xã hội và đảo lộn về chính trị. Các quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp, hay các quan hệ chính trị nói chung chỉ là sự phản ánh các quan hệ lợi ích kinh tế, các mâu thuẫn trong quan hệ kinh tế. Kinh tế phát triển thì chứng tỏ chính trị có sự tiến bộ nhất định; ngược lại, kinh tế khủng hoảng là dấu hiệu cho thấy sự bất cập của chính trị và đòi hỏi chính trị phải có sự điều chỉnh.

C. Mác khẳng định kinh tế quyết định chính trị, song cũng luôn luôn nhấn mạnh tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của chính trị đối với kinh tế. Sự tác động lại đó thể hiện trên một số phương diện sau:

Một là, thắng lợi của chính trị là tiền đề, điều kiện tiên quyết cho phát triển kinh tế. Việc giành lấy lợi ích chính trị không có mục đích tự thân, mà chỉ là phương thức, là con đường, phương tiện để đạt lợi ích kinh tế và củng cố lợi ích kinh tế. Nói cách khác, đấu tranh giành lợi ích chính trị cũng nhằm phục vụ cho việc giành lợi ích kinh tế, bảo vệ lợi ích kinh tế. Một khi quyền lực chính trị và các thiết chế chính trị được củng cố, hoàn thiện sẽ có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ, tăng cường sức mạnh lợi ích kinh tế của chủ thể quyền lực chính trị tương ứng. Đây là nội dung quan trọng của quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị. Do đó, C. Mác đã cho rằng, trong cách mạng vô sản, để bảo đảm sự thống trị về mặt kinh tế của giai cấp công nhân, điều kiện đầu tiên là phải đập tan bộ máy nhà nước tư sản, thiết lập quyền lực nhà nước của giai cấp vô sản, vì “việc giải phóng giai cấp công nhân về mặt kinh tế là mục tiêu vĩ đại mà bất kỳ phong trào chính trị nào cũng đều phải phục tùng”(6).

Hai là, chính trị tạo môi trường chính trị - xã hội ổn định, đáp ứng những điều kiện cần thiết cho sự phát triển của kinh tế. Nói cách khác, chính trị lãnh đạo kinh tế, vạch hướng đi cho kinh tế, tạo những điều kiện chính trị, xã hội cho kinh tế phát triển. Đồng thời, chính trị bảo vệ, củng cố, phát triển hay cản trở, cải tạo, xóa bỏ một thành phần kinh tế, một hướng phát triển kinh tế. Trên thực tế, không có đường lối chính trị đúng thì không một giai cấp thống trị nào có thể giữ vững được sự thống nhất chính trị, và do đó, cũng không có khả năng lãnh đạo kinh tế. Một quan điểm hay một thiết chế chính trị sai lầm có tác động rất tiêu cực đối với sự phát triển của kinh tế, của sản xuất. Nó có thể làm tiêu vong toàn bộ những thành tựu kinh tế, hoặc làm cho nền kinh tế phát triển chệch hướng. C. Mác khẳng định: “Tất cả các chính phủ, ngay cả những chính phủ chuyên chế nhất, xét đến cùng, chỉ là người thực hiện tính tất yếu kinh tế bắt nguồn từ tình hình đất nước... họ có thể đẩy nhanh hoặc làm chậm sự phát triển kinh tế cùng với những hệ quả về chính trị và pháp luật bắt nguồn từ sự phát triển kinh tế ấy”(7).

Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ cơ bản trong đời sống xã hội, có ý nghĩa quyết định, chi phối các mối quan hệ xã hội khác. Vì vậy, trong xử lý mối quan hệ này, đòi hỏi phải có sự chủ động, sáng tạo, tránh tuyệt đối hóa mặt này hay mặt kia của mối quan hệ, hoặc đồng nhất chúng với nhau. Tuyệt đối hóa kinh tế sẽ rơi vào tình trạng phát triển nền kinh tế một cách tự do, vô chính phủ, không bền vững, tập trung tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, hy sinh các mặt khác. Tuyệt đối hóa chính trị trong phát triển kinh tế sẽ làm cho nền kinh tế bị can thiệp, áp đặt một cách duy ý chí, không theo quy luật khách quan. Đồng nhất chính trị với kinh tế sẽ làm cho chính trị trở nên cứng nhắc, giáo điều. Mắc phải một trong những khuynh hướng nêu trên đều làm ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của kinh tế nói riêng và sự phát triển của xã hội nói chung.

*
*   *

Ở nước ta, trong thời kỳ chiến tranh, Đảng ta xác định, phải ưu tiên chính trị, kinh tế là nhân tố phục vụ cho mục tiêu chính trị. Thậm chí, ở mức độ nào đó, chúng ta đã phải tạm thời gác lại các nhu cầu, lợi ích kinh tế để ưu tiên tập trung cho giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc - nhiệm vụ chính trị cao nhất trong bối cảnh lịch sử đó. Vì vậy, việc phát triển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp là phù hợp và cần thiết.

Sau khi kết thúc chiến tranh (năm 1975), nhiệm vụ chính trị lúc này là phải đẩy mạnh phát triển kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Nhưng chúng ta đã kéo dài mô hình kinh tế và chính trị thời chiến sang thời bình, thậm chí có lúc, có nơi còn tuyệt đối hóa chính trị. Theo đó, mô hình kinh tế và chính trị được thiết lập một cách chủ quan, duy ý chí, không dựa trên cơ sở thực trạng phát triển kinh tế đất nước, không phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mới của cách mạng, quá nhấn mạnh vai trò của chính trị, coi nhẹ quy luật kinh tế; chính trị can thiệp một cách quá sâu bằng những biện pháp áp đặt phi kinh tế vào sự phát triển của kinh tế. Hậu quả là, chính trị mang nặng tính quan liêu, trở thành gánh nặng cản trở sự phát triển của kinh tế; kinh tế mất động lực phát triển, rơi vào trì trệ, khủng hoảng. Vì vậy, Việt Nam buộc phải tiến hành đổi mới, trong đó có vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị một cách biện chứng.

Từ khi đổi mới (năm 1986) đến nay, trên cơ sở nhận thức lại chủ nghĩa Mác - Lê-nin nói chung và quan điểm của C. Mác về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị nói riêng, Đảng ta đã chủ trương đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có đổi mới cả kinh tế lẫn chính trị. Thành công nổi bật là Đảng ta đã xác định đúng đắn trọng tâm, trọng điểm và bước đi trong đổi mới. Cụ thể, bắt đầu từ đổi mới tư duy; đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội. Cùng với đổi mới tư duy, Đảng chủ trương kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đây là sự vận dụng đúng đắn quan điểm của C. Mác về mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị. Thời kỳ đầu, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới chính trị. Kết quả là, chúng ta đã đổi mới một cách cơ bản về cơ sở hạ tầng, tức là từ nền kinh tế một thành phần sang kinh tế nhiều thành phần; từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; từ phân phối bình quân theo chế độ hiện vật sang phân phối theo hiệu quả lao động, theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.

Từ Hội nghị Trung ương 2 khóa VII (năm 1991) đến nay, tình hình đã cho phépđòi hỏi phải đổi mới căn bản về chính trị. Tuy nhiên, trong đổi mới chính trị, Đảng ta khẳng định có những vấn đề thuộc về nguyên tắc là: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và thực hiện chế độ chính trị nhất nguyên, một đảng lãnh đạo, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Tập trung đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị; các khâu khác của hệ thống đó được tiến hành đổi mới thận trọng và từng bước. Đặc biệt, chính trị là lĩnh vực tác động trực tiếp đến các mối quan hệ phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, bởi vậy, Đảng đã chủ động chỉ đạo: “việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối loạn”(8). Đây là một chủ trương đúng và trúng, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị - một tiền đề tiên quyết cho sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, như Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra, quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết, đó là: Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô có lúc thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. “Tổ chức bộ máy của Đảng và toàn hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ chức còn chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ,... Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan, tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức kết quả còn thấp. Số lượng cán bộ, công chức không những không giảm mà lại tăng...”(9). Vì thế, Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh mục tiêu và nhiệm vụ phát triển đất nước trong 5 năm tới là: “đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị”(10).

Trong thời gian tới, để giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị mà Đại hội XII của Đảng đã đề ra, chúng ta cần tuân thủ một số nguyên tắc sau:

Thứ nhất, cần nhận thức đúng vấn đề có tính quy luật là mọi sự biến đổi của chính trị đều là sự phản ánh sự biến đổi của kinh tế, do kinh tế quyết định. Vì vậy, phải từ đổi mới kinh tế mà tiến tới đổi mới chính trị và từ thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà đổi mới chính trị cho phù hợp. Đồng thời, chính trị có vai trò định hướng, dẫn dắt (thông qua cơ chế, chính sách) đối với kinh tế nên phải không ngừng đổi mới chính trị. Tuy nhiên, chính trị là lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp nên đổi mới chính trị phải thận trọng, có bước đi phù hợp, tiến hành từng bước.

Thứ hai, đặt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong xu thế phát triển của thời đại và trong các mối quan hệ khác của công cuộc đổi mới. Cần khắc phục tính tự phát do ảnh hưởng của xã hội tiểu nông, xác định những yêu cầu mới trong việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là điều kiện giải quyết các mối quan hệ khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền trong quá trình hội nhập quốc tế. Theo đó, giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị theo hướng thiết lập và hoàn thiện thể chế kinh tế - chính trị - xã hội thống nhất, hài hòa; xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ, hội nhập quốc tế; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, phù hợp, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; phát huy đầy đủ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thông qua nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện và ngày càng coi trọng các hình thức dân chủ trực tiếp.

Thứ ba, cần nắm vững những quan điểm có tính chỉ đạo, những yêu cầu về sự thay đổi tương thích cần có giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị để có sự lựa chọn và vận dụng các phương pháp khoa học trong việc giải quyết mối quan hệ giữa chúng. Theo đó, trong những năm tới, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:

Về kinh tế: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế quyết định chính trị và nguyên nhân sâu xa của mối quan hệ này là do sở hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu quy định. Do vậy, để đổi mới kinh tế, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể, cần tập trung thể chế hóa các quyền tài sản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời thể chế hóa vai trò “chủ đạo” của kinh tế nhà nước và xác định rõ vị trí, vai trò, biện pháp phát triển kinh tế tư nhân; hoàn thiện thể chế phát triển các loại thị trường trong điều kiện hội nhập quốc tế đầy đủ, sâu rộng, đặc biệt là thị trường lao động, tài chính, bất động sản và khoa học - công nghệ; hoàn thiện thể chế phân phối thu nhập quốc dân, mà ở đó thị trường đóng vai trò phân phối lần đầu, nhà nước đóng vai trò trong phân phối lại, giải quyết hài hòa tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; đồng thời hoàn thiện thể chế quản lý các lĩnh vực văn hóa, xã hội và môi trường nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững.

Về chính trị: Tiếp tục đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Các kỳ đại hội trước, Đảng ta chủ trương tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Tại Đại hội XII, Đảng ta chủ trương tập trung đổi mới bộ máy của Đảng, trong đó có việc “Nghiên cứu thực hiện thí điểm hợp nhất một số cơ quan đảng và nhà nước tương đồng về chức năng, nhiệm vụ”(11) để trên cơ sở đó, tinh giản tổ chức, bộ máy, gắn với phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các tổ chức trong toàn hệ thống chính trị.

Xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước, nhằm khắc phục những sai lầm thường xảy ra trong quản lý kinh tế ở nước ta là cơ quan đảng làm thay chức năng quản lý nhà nước, còn cơ quan nhà nước lại lấn át quyền quản lý của doanh nghiệp. Do vậy, trong những năm tới cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo hướng cải cách đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp, được không ngừng tinh gọn bộ máy và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch; sử dụng các nguồn lực, công cụ, cơ chế, chính sách để định hướng, điều tiết nền kinh tế; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từ chính sách phát triển.

Trong đổi mới chính trị những năm qua, chúng ta mới chỉ nhấn mạnh ý nghĩa của đổi mới tư duy về chính trị, còn đổi mới con người chính trị - cơ cấu và cơ chế của hệ thống chính trị - còn mới ở mức khiêm tốn. Vì vậy, thời gian tới chúng ta cần tập trung đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị.

Ngoài ra, cần tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội. Trong đó, chú trọng đa dạng hóa về hình thức hoạt động, nâng cao tính thiết thực và hiệu quả, làm tốt chức năng phản biện và giám sát xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội. Tránh tình trạng “hành chính hóa” các tổ chức chính trị - xã hội, làm cho ngân sách nhà nước phải gánh quá lớn; và do vậy, cần khắc phục tình trạng này theo hướng ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ cho các tổ chức đó khi họ thực hiện công việc do Nhà nước yêu cầu, đặt hàng.

Nhìn lại thực tiễn hơn 30 năm đổi mới đất nước, có thể thấy, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ngày càng trở thành nội dung quan trọng trong các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Do vậy, nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ này không chỉ là khâu đột phá mà còn giúp giải quyết những vấn đề cơ bản nhất của thực tiễn đất nước đang đặt ra./.

---------------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 68

(2), (3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1993, t. 13, tr. 14 - 15, 15

(4), (5) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 15

(6) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 16, tr. 24

(7) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 38, tr. 488

(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 54

(9), (10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 193 - 194, 75

(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 203