TCCS - Trong những thập niên qua, châu Á - Thái Bình Dương trở thành một trong những động lực chủ yếu cho sự phát triển của thế giới. Thế kỷ XXI được dự báo là “Thế kỷ châu Á - Thái Bình Dương”. Do đó, gần như tất cả các nước lớn trên thế giới đều chú trọng và có sự điều chỉnh chiến lược đối với khu vực có tầm quan trọng đặc biệt này.

Sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ

Sự điều chỉnh chiến lược đáng chú ý nhất của Mỹ là đầu năm 2011, Tổng thống Mỹ B. Ô-ba-ma tuyên bố chuyển trọng tâm chiến lược toàn cầu sang châu Á - Thái Bình Dương nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược xuyên suốt là tiếp tục giữ vai trò lãnh đạo thế giới, không để xuất hiện bất cứ đối thủ nào có thể cạnh tranh hay thách thức vị thế số 1 của Mỹ ở một khu vực được đánh giá là phát triển nhanh và năng động nhất thế giới này. Để thực hiện chiến lược “xoay trục” sang châu Á - Thái Bình Dương, bước đầu Mỹ đã thực hiện một số biện pháp chiến lược.

Một là, tăng cường quan hệ liên minh quân sự với các đồng minh truyền thống trong khu vực, như Phi-líp-pin, Thái Lan, Xin-ga-po, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, trong đó liên minh Mỹ - Nhật Bản là cốt lõi của cả hệ thống an ninh trong khu vực. Đồng thời, Mỹ phát triển và tăng cường quan hệ với nhiều đối tác khác trong khu vực, như thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với ASEAN và quan hệ đối tác toàn diện với Việt Nam. Theo hướng này, Mỹ tiến hành bố trí lại lực lượng ở Nhật Bản và quyết định mở thêm căn cứ quân sự ở Ô-xtrây-li-a và Phi-líp-pin; tăng cường các cuộc diễn tập quân sự phối hợp song phương hoặc đa phương với các đồng minh và đối tác của Mỹ trong khu vực.

Hai là, tăng cường sự hiện diện quân sự ở châu Á - Thái Bình Dương. Theo đó, Mỹ sẽ chuyển phần lớn hạm đội hải quân tới Thái Bình Dương vào năm 2020, điều chỉnh tương quan lực lượng hải quân bố trí tại Thái Bình Dương và Đại Tây Dương từ tỷ lệ 50-50 thành 60-40, nghiêng về ưu tiên khu vực Thái Bình Dương.

Ba là, tăng cường sự tham gia và ảnh hưởng của Mỹ tại các diễn đàn ở khu vực có liên quan tới Biển Đông, như ASEAN, Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Diễn đàn Đông Á (EAF); Diễn đàn Kinh tế thế giới khu vực Đông Á; Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC).

Bốn là, xúc tiến ký kết và thực thi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Năm 2015, sau khi hoàn tất đàm phán, Tổng thống Mỹ B. Ô-ba-ma tuyên bố, TPP là “Hiệp định của thế kỷ XXI” và với TPP, Mỹ chứ không phải là Trung Quốc hay Nga sẽ “viết luật chơi cho thế giới”.

Sự điều chỉnh chiến lược của Trung Quốc

Sự điều chỉnh chiến lược của Trung Quốc liên quan tới châu Á - Thái Bình Dương được thể hiện trong chính sách đối ngoại, chiến lược “một vành đai, một con đường” và sự điều chỉnh chiến lược quốc phòng của nước này.

Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Trung Quốc được thể hiện khá rõ ở quan điểm coi tất cả các nước trên thế giới đều là đối tác và phân thành 4 nhóm theo các tiêu chí chủ yếu là mức độ ưu tiên và tầm quan trọng của đối tác đối với Trung Quốc, xét cả về mặt kinh tế và chính trị. Nhóm 1 là quan hệ đối tác cao nhất, trong đó chỉ có Nga mà Trung Quốc đã thiết lập quan hệ đối tác và hợp tác chiến lược. Nhóm 2 là quan hệ đối tác hữu nghị, gồm Hàn Quốc, Bra-xin, Nam Phi, Ấn Độ, Ca-na-đa, U-crai-na, Bê-la-rút, Mê-hi-cô, Ác-hen-ti-na và nhiều nước khác. Nhóm nước này không có xung đột về những lợi ích căn bản nhưng có mâu thuẫn cục bộ với Trung Quốc. Nhóm 3 là quan hệ “đối tác dựa trên cơ sở đồng thuận” gồm có Liên minh châu Âu (EU) và các nước ASEAN. Đây là nhóm nước Trung Quốc có nhiều lợi ích kinh tế nhưng lại mâu thuẫn về chính trị trong nhiều vấn đề then chốt và tranh chấp lãnh thổ. Nhóm 4 là quan hệ “đối tác thực dụng” bao gồm Mỹ và Nhật Bản mà Trung Quốc coi là “đối thủ cạnh tranh chiến lược tiềm tàng”.

Trong các nước đối tác, Trung Quốc tập trung vào hai đối tượng là các nước láng giềng và các nước lớn. Với các nước láng giềng, Trung Quốc cho rằng đang tích tụ nhiều vấn đề cần giải quyết và là một trong những lý do chủ yếu dẫn đến sự điều chỉnh chính sách ngoại giao với các nước này. Trung Quốc chủ trương liên thông ngoại giao láng giềng tại sáu địa bàn gồm Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Nam Á, Trung Á, Tây Á và Nam Thái Bình Dương; kết hợp điều phối bốn mặt tư duy ngoại giao láng giềng giữa “đột phá trên biển” và “tích cực Tây tiến”, giữa “đứng vững trong nước” và “triển khai ra ngoài”. Phương châm điều chỉnh chính sách ngoại giao của Trung Quốc trong 5-10 năm tới là “kiên trì chủ động về chiến lược, không bị rối loạn bởi các sự kiện cục bộ”; chuyển từ “bị động đối phó, khắc phục tiêu cực” sang “chủ động phản công, tích cực đáp trả”, tăng cường yếu tố chiến lược và yếu tố an ninh trong điều chỉnh chính sách ngoại giao láng giềng, làm cho chính sách láng giềng phục vụ tốt hơn chiến lược đối ngoại tổng thể của Trung Quốc. Trong các mối quan hệ cụ thể, Trung Quốc áp dụng chiến thuật “khác biệt cự ly” với các quốc gia láng giềng, tùy theo “mức độ thân sơ”, “mức độ cống hiến” của từng quốc gia đối với lợi ích của Trung Quốc mà có những đối sách thích ứng.

Để bảo đảm môi trường bên ngoài, Trung Quốc tập trung ưu tiên xây dựng “quan hệ nước lớn kiểu mới”, trước hết là với Mỹ. Trung Quốc còn đề xuất xây dựng “quan hệ quân sự kiểu mới Trung Quốc - Mỹ” với nội hàm “tôn trọng lẫn nhau, tin cậy lẫn nhau, hợp tác, ổn định”. Quan điểm về “quan hệ nước lớn kiểu mới” và “quan hệ quân sự kiểu mới” do Trung Quốc chủ động đề xướng đều xuất phát từ tư duy ổn định quan hệ với nước lớn, với quân đội nước lớn để bảo đảm an ninh quốc gia. Mục tiêu chủ yếu của “xây dựng quan hệ nước lớn kiểu mới” này là nhằm đối phó với chiến lược “tái cân bằng” của Mỹ nhưng mục tiêu cụ thể chính là tạo môi trường thuận lợi xung quanh để bảo vệ các lợi ích được xem là cốt lõi của Trung Quốc, như chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển.

Đáng chú ý là năm 2014, Trung Quốc đưa ra “quan điểm an ninh châu Á mới” nhằm tìm kiếm vai trò chủ đạo của mình trong hệ thống an ninh khu vực. Đây là nội dung của sự điều chỉnh tư duy an ninh chiến lược của ban lãnh đạo mới của Trung Quốc. Quan điểm này được Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình chính thức đưa ra lần đầu tiên tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ tư về phối hợp hành động và các biện pháp xây dựng lòng tin châu Á (CICA) được tổ chức vào tháng 5-2014 tại Thượng Hải, với nội hàm xây dựng một nền an ninh cộng đồng, an ninh tổng hợp, an ninh hợp tác và an ninh bền vững ở châu Á. Theo đó, Trung Quốc chủ trương “công việc của châu Á cần dựa vào nhân dân châu Á để giải quyết”. Chủ trương này khác với những lần tuyên bố trước đây rằng “Thái Bình Dương đủ rộng để dung nạp cả Trung Quốc và Mỹ”.

Để tạo sự đột phá cho chiến lược phát triển tổng hợp quốc gia, tháng 9-2013, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đề xuất sáng kiến chiến lược “một vành đai, một con đường” (vành đai kinh tế “con đường tơ lụa trên bộ” và “con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI”). Sáng kiến này sau đó được chính thức ghi vào Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa XVIII (tháng 11-2013). Qua nghiên cứu những mục tiêu của chiến lược “một vành đai, một con đường” của Trung Quốc, giới phân tích chính trị quốc tế nhận định, Trung Quốc đang theo đuổi tham vọng xây dựng một trật tự thế giới mới do Bắc Kinh “viết luật chơi”, được thể hiện ở nhiều mục tiêu lớn của chiến lược này. Đó là: 1- Mở rộng không gian chiến lược và tạo ra một dạng “khu vực sân sau” của Trung Quốc để kiểm soát lục địa Á - Âu; 2- Tạo đối trọng với chiến lược “tái cân bằng” của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương; 3- Chi phối khu vực Ấn Độ Dương và khu vực nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương; 4- Kiểm soát các đường vận tải biển liên quan và hệ thống cảng biển khu vực, chi phối các nguồn cung cấp dầu khí, tạo lập các căn cứ quân sự tại những khu vực mà những con đường này đi qua; 5- Tạo môi trường kinh tế - xã hội cho việc mở rộng “sức mạnh mềm” của Trung Quốc; 6- Xây dựng vành đai an ninh xung quanh Trung Quốc để ngăn chặn Mỹ và đồng minh tiếp cận và thâm nhập vào khu vực mà Bắc Kinh coi là “sân sau” của mình; 7- Dựa vào hợp tác kinh tế để thúc đẩy quan hệ chính trị, tạo chất xúc tác để giải quyết các tồn tại trong quan hệ của Trung Quốc với các nước khu vực, ngăn chặn sự “co cụm” của các quốc gia trong khu vực có tranh chấp với Trung Quốc, kể cả vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo; 8- Thúc đẩy hợp tác kinh tế khu vực; 9- Tăng cường vai trò bàn đạp của kinh tế khu vực xung quanh Trung Quốc; 10- Hậu thuẫn cho Trung Quốc “đi ra thế giới”; 11- Thông qua “5 thông” (thông chính sách, thông tuyến (trên bộ và trên biển), thông thương, thông tiền tệ và thông lòng người) để tiếp cận, thâm nhập và kiểm soát kinh tế khu vực “láng giềng mở rộng” nhằm tiến tới nắm quyền chủ đạo mậu dịch quốc tế, quyền định giá và quyền phân phối tài nguyên quốc tế; 12- Giải quyết vấn đề dư thừa năng lực sản xuất, tìm kiếm thị trường cho hàng hóa ứ đọng; 13- Tìm thị trường đầu tư, sử dụng hiệu quả dự trữ ngoại hối khổng lồ của Trung Quốc, tìm thị trường cho đồng nhân dân tệ, đẩy mạnh tiến trình quốc tế hóa đồng nhân dân tệ; 14- Tiếp cận các nguồn tài nguyên, năng lượng, nhất là dầu khí; 15- Tận dụng môi trường xung quanh để tạo điều kiện phát triển đồng đều hơn giữa các vùng, miền trong nước, đặc biệt là khu vực biên cương, miền Tây Trung Quốc.

Trung Quốc cũng tiến hành điều chỉnh chiến lược quốc phòng. Theo đó, ngày 26-5-2015, Trung Quốc chính thức công bố Sách trắng quốc phòng, thể hiện rõ nhất chiến lược quốc phòng của quốc gia này trong một giai đoạn lịch sử mới, chuyển từ thời kỳ “giấu mình chờ thời” sang thực hiện ”giấc mộng Trung Hoa”, trở thành cường quốc thế giới.

Kể từ năm 2009 khi trình lên Liên hợp quốc yêu sách phi lý “Đường lưỡi bò 9 đoạn” bao gồm một khu vực chiếm trên 80% diện tích Biển Đông, Trung Quốc từng bước đơn phương thực hiện nhiều hoạt động phi pháp hòng độc chiếm Biển Đông. Hành động này của Trung Quốc là thách thức lớn nhất đối với chiến lược “xoay trục” sang châu Á của Mỹ, còn về lâu dài là nhằm làm phá sản chủ trương của Mỹ biến “Thế kỷ châu Á - Thái Bình Dương” thành “thế kỷ Mỹ”. Vì thế, Tổng thống Mỹ B. Ô-ba-ma đã chỉ trích hành động này của Trung Quốc là “dùng cơ bắp, sức mạnh thuần túy để bắt nước khác phục tùng mình”.

Sự điều chỉnh chiến lược của Nga

Nghiên cứu sự phát triển tư duy của giới lãnh đạo Nga kể từ khi Liên Xô tan rã, có thể khẳng định, sự điều chỉnh chiến lược của Nga đối với châu Á không phải là sự điều chỉnh chiến lược mang tính tình thế hoặc nhất thời nhằm đối phó với Mỹ và phương Tây, mà là thể hiện chiến lược hướng Đông, hay còn được gọi là “xoay trục” tới châu Á kể từ khi Tổng thống Nga V. Pu-tin lên cầm quyền vào năm 2000, xuất phát từ 4 lý do quan trọng nhất: 1- Thế kỷ XXI sẽ là “Thế kỷ châu Á - Thái Bình Dương”; 2- Sự đối đầu giữa phương Tây do Mỹ đứng đầu và Nga nằm trong chiến lược dài hạn sau Chiến tranh lạnh với toan tính của phương Tây làm tan rã nước Nga như một quốc gia có chủ quyền; 3- Nga là cường quốc nằm trên hai châu lục Á và Âu; 4- Trong quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ, yếu tố cạnh tranh sẽ ngày càng nổi trội, buộc Trung Quốc phải liên kết với Nga để đối phó với Mỹ. Do đó, giữa Nga và Trung Quốc hình thành “mối liên kết tự nhiên”.

Sự điều chỉnh chiến lược của Nga nhằm: 1- Khai thác tiềm năng các nền kinh tế đang phát triển nhanh ở châu Á để thu hút đầu tư cho phát triển khu vực Xi-bê-ri và Viễn Đông của Nga; 2- Tiếp cận thị trường rất lớn về tài nguyên năng lượng ở châu Á với vai trò là nhà xuất khẩu năng lượng lớn nhất thế giới; 3- Mở rộng thị trường vũ khí trang thiết bị rộng lớn ở châu Á do các nước trong khu vực này có nhu cầu rất lớn về vũ khí trang bị hiện đại.

Sự điều chỉnh của Nga trong quan hệ đối tác với ASEAN là một trong những ưu tiên trong chính sách của Nga ở châu Á - Thái Bình Dương bởi Nga và ASEAN có quan hệ gắn kết với nhau dựa trên nền tảng lịch sử bền vững, sự gần gũi hoặc trùng hợp về quan điểm đối với nhiều vấn đề toàn cầu và khu vực, tạo khả năng to lớn để hai bên cùng phối hợp hoạt động trong các công việc quốc tế. Nga và ASEAN ủng hộ việc xây dựng cấu trúc khu vực hoàn thiện hơn ở châu Á - Thái Bình Dương theo nguyên tắc bình đẳng và minh bạch, dựa trên cơ sở đa trung tâm, quyền tối cao của pháp luật, tính đến lợi ích của tất cả các nước trong khu vực dựa trên cơ sở Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á mà Nga đã tham gia từ năm 2004. Theo quan điểm của mình, Nga không có tham vọng giành ưu thế quân sự, cũng không đặt ra nhiệm vụ bảo đảm an ninh biên giới phía Đông của Nga làm phương hại đến an ninh của các nước khác; không có kế hoạch xây dựng căn cứ ở châu Á - Thái Bình Dương, không xây dựng liên minh quân sự bí mật với các nước trong khu vực, không cạnh tranh với bất kỳ các nước nào trong việc tranh giành ảnh hưởng. Nga khẳng định tôn trọng chủ quyền của các nước trong khu vực, ủng hộ sự đa dạng của mô hình phát triển, đối thoại giữa các nền văn hóa và tôn giáo; hợp tác với các nước trong khu vực trong khuôn khổ cơ chế đa phương hiện có và sẵn sàng đề xuất sáng kiến xây dựng các diễn đàn mới, như tăng cường tiếp xúc chặt chẽ hơn nữa giữa ASEAN với Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO). Hai bên có đủ các điều kiện cần thiết, gồm ý chí chính trị, truyền thống hữu nghị lâu đời, nền tảng hợp tác bền vững và sự quan tâm về lợi ích của nhau. Diễn đàn Nga - ASEAN năm 2010 là sự kiện quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử quan hệ giữa Nga và ASEAN. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN - Nga kỷ niệm 20 năm quan hệ đối tác đối thoại được tổ chức tại Xô-chi (Nga) tháng 5-2016, hai bên đã đề ra khuôn khổ hợp tác mới để đưa mối quan hệ đi vào chiều sâu, hướng tới quan hệ đối tác chiến lược trong tương lai

Sự điều chỉnh chiến lược của Nhật Bản

Ngày 1-7-2014 là dấu mốc quan trọng trong quá trình điều chỉnh chính sách quốc phòng của Nhật Bản để trở thành một “quốc gia bình thường”, thể hiện qua việc nội các nước này đưa ra lời giải thích mới về nội dung Điều 9 của Hiến pháp, theo đó Lực lượng phòng vệ Nhật Bản sẽ tham gia sứ mệnh phòng thủ tập thể bên ngoài lãnh thổ quốc gia.

Trong một tuyên bố được đưa ra ngày 2-7-2014, Thủ tướng Nhật Bản Sin-dô A-bê giải thích rõ, theo quyết định của Chính phủ Nhật Bản diễn giải lại Điều 9 của Hiến pháp, Nhật Bản có 4 phương án hành động để thực hiện quyền phòng vệ tập thể. Phương án 1 là sử dụng hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia để đánh chặn các tên lửa đang bay nhằm vào các mục tiêu của Mỹ. Phương án 2 là triển khai lực lượng phòng vệ trên biển JMSDF (Japan Maritime Self-Defense Force) của Nhật Bản một khi các tàu của Mỹ bị tấn công ở các vùng biển xa. Phương án 3 là sử dụng các lực lượng phòng vệ Nhật Bản JSF để thực hiện một cuộc phản công nếu một bộ chỉ huy liên quân có sự tham gia của Nhật Bản bị một quốc gia nào đó tấn công trên lãnh thổ nước ngoài. Phương án 4 là sử dụng lực lượng quân sự để loại bỏ những trở ngại trong các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Bốn phương án trên được đưa ra trong bối cảnh Nhật Bản luôn ở trong trạng thái sẵn sàng bảo đảm hiệu lực và hiệu quả của Liên minh Nhật Bản - Mỹ cũng như bảo đảm lợi ích an ninh của Nhật Bản. Như vậy, theo cách giải thích này, Nhật Bản vẫn tuân thủ chủ trương phòng vệ chứ không phải tiến công, kể cả khi phải đối phó với Trung Quốc trong các cuộc tranh chấp liên quan tới quần đảo Xen-ca-cư/Điếu Ngư trên biển Hoa Đông.

Trên cơ sở diễn giải lại Điều 9 của Hiến pháp, Nhật Bản đã xây dựng Đạo luật an ninh mới có hiệu lực từ ngày 28-3-2016. Theo Đạo luật này, lần đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Nhật Bản được phép tham gia các hoạt động quân sự ở nước ngoài. Sự điều chỉnh này sẽ có tác động tới cục diện chính trị - quân sự khu vực và thế giới.

Sự điều chỉnh chiến lược của Ấn Độ

Sự điều chỉnh chiến lược của Ấn Độ đối với châu Á - Thái Bình Dương được thể hiện rõ nhất ở “chính sách hướng Đông” được công bố chính thức vào năm 1992 nhằm tăng cường quan hệ với các nước ở Đông Bắc Á, Đông Nam Á nói riêng và châu Á - Thái Bình Dương nói chung. Đây là một trong những điều chỉnh chính sách đối ngoại quan trọng của Ấn Độ thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh. Năm 2000, Bộ Quốc phòng Ấn Độ đề cập đến Biển Đông như là điểm cực đông trong hành trình chiến lược của Hải quân Ấn Độ tại Ấn Độ Dương và cho biết Biển Đông thuộc phạm vi khái niệm “láng giềng mở rộng” về phía đông trong “chính sách hướng Đông”. Năm 2014, trong bản tuyên bố chung sau cuộc gặp cấp cao giữa Thủ tướng Ấn Độ N. Mô-đi và Tổng thống Mỹ B. Ô-ba-ma, chính sách “Hành động phía Đông” đã được đưa ra thay cho “Chính sách hướng Đông”.

Hiện nay, Ấn Độ công khai khẳng định lợi ích của mình ở Biển Đông thể hiện trên cả khía cạnh kinh tế và an ninh.

Về kinh tế, khoảng 77% giá trị thương mại và hơn 90% khối lượng thương mại của Ấn Độ được vận chuyển bằng đường biển, trong đó, 55% được vận chuyển qua eo biển Ma-lắc-ca tới các thị trường ở châu Á - Thái Bình Dương. Lợi ích về thương mại của Ấn Độ ở Biển Đông càng tăng khi Ấn Độ và ASEAN đặt mục tiêu nâng kim ngạch thương mại song phương lên 100 tỷ USD vào năm 2015 - 2016. Ngoài ra, Ấn Độ còn có lợi ích về năng lượng trong các dự án hợp tác dầu khí giữa Công ty Dầu khí quốc gia của Ấn Độ (OVL) và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN).

Về an ninh, sự an toàn của tuyến đường vận tải biển qua Biển Đông có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Ấn Độ. Các thách thức an ninh truyền thống (xung đột leo thang giữa các bên yêu sách) và an ninh phi truyền thống (tội phạm xuyên quốc gia trên biển, cướp biển) ở khu vực này cản trở đường vận tải hàng hóa trên biển của Ấn Độ. Do đó, việc Ấn Độ tăng cường hiện diện hải quân và “quyền tiếp cận” ở Biển Đông là một phần quan trọng trong lợi ích của Ấn Độ. Theo chiều hướng đó, Ấn Độ đã thiết lập quan hệ hợp tác an ninh với Nhật Bản và Ô-xtrây-li-a.

Mối quan tâm của các cường quốc khu vực và thế giới khiến khu vực châu Á - Thái Bình Dương ngày càng “nóng” lên. Cùng với cơ hội phát triển, thách thức đang gia tăng đối với nhiều quốc gia trong khu vực. Việc nắm bắt, khai thác cơ hội, thời cơ và vượt qua thách thức từ sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn phụ thuộc vào quan điểm, đường lối chiến lược của mỗi quốc gia trong khu vực./.