TCCS - Biển, đảo là phần lãnh thổ thiêng liêng không thể tách rời, có vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thời gian qua, lợi dụng những diễn biến phức tạp trên Biển Đông, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị luôn tìm mọi cách xuyên tạc, kích động, chống phá chủ quyền biển, đảo nước ta. Việc nhận diện và chủ động đấu tranh với hoạt động này có ý nghĩa quan trọng trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở nước ta hiện nay.

Việt Nam là quốc gia biển, giáp với Biển Đông trên 3 hướng: Đông, Nam và Tây Nam; có bờ biển dài trên 3.260km trải dài từ bắc xuống nam và hơn 4.000 hòn đảo lớn nhỏ. Vùng biển của nước ta có diện tích gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần 30% diện tích Biển Đông. Án ngữ ở vị trí thuận lợi trên con đường hàng hải và hàng không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương; giữa châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực; là vùng biển giàu các loại tài nguyên, khoáng sản; phong phú, đa dạng các loài sinh vật biển,… Biển, đảo nước ta chiếm vị trí địa - chính trị, địa - kinh tế và địa - văn hóa trọng yếu trên bản đồ chiến lược khu vực và thế giới. Cùng với đó, những nhân tố gây mất ổn định, xâm phạm chủ quyền, an ninh vùng biển, đảo Việt Nam vẫn đang diễn ra gay gắt; nguy cơ xung đột vũ trang, tranh chấp trên biển, đảo diễn ra ngày càng phức tạp, khó lường. Nhận thức đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; kế thừa và phát triển ý thức chủ quyền biển, đảo của ông cha trong lịch sử dựng nước và giữ nước, Nhà nước ta đã xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Đảo Trường Sa (huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa) _Ảnh: Tư liệu

Chính sách, pháp luật của Việt Nam về bảo vệ chủ quyền biển, đảo

Chính sách của Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Với quan điểm nhất quán “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền và các lợi ích hợp pháp, chính đáng của quốc gia trên biển, đồng thời chủ động, tích cực giải quyết, xử lý các tranh chấp, bất đồng trên Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS năm 1982); giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển”(1), Đảng ta đã hoạch định đường lối chính trị về biển, đảo phù hợp với từng thời kỳ để các cơ quan nhà nước thể chế hóa thành chính sách, pháp luật về bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên biển, đảo. Những chính sách quan trọng nhất về biển, đảo của Việt Nam có thể kể đến, như “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” (năm 2007) và “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến 2030, tầm nhìn đến 2045” (năm 2018)...

Với “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, lần đầu tiên, nước ta có một chiến lược biển toàn diện, có tầm nhìn chiến lược rộng, tính bao quát cao trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại, hợp tác quốc tế, môi trường,... Chiến lược đặt mục tiêu: “Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo”.

Trên cơ sở tổng kết và kế thừa “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, ngày 22-10-2018, Hội nghị Trung ương 8 khóa XII ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW, về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến 2030, tầm nhìn đến 2045” đề ra những mục tiêu mới với những giải pháp tổng thể cho từng giai đoạn. Cụ thể, nghị quyết xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2030: Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hóa sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng. Những thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển. Tầm nhìn đến năm 2045: Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương. Chiến lược đề ra 7 giải pháp quan trọng để thực hiện các mục tiêu đó.

Bước vào giai đoạn phát triển mới, ngày 5-3-2020, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP, về “Ban hành kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22 tháng 10 năm 2018 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Tiếp theo, ngày 24-11-2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 31/CT-TTg, “Về đổi mới và tăng cường tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Trong đó, chỉ ra các nguyên nhân ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW. Trên cơ sở đó đặt ra yêu cầu cần phải đổi mới và tăng cường tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Pháp luật của Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Ngay sau khi đất nước thống nhất, ngày 12-5-1977, Chính phủ đã ra Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Tiếp đó, ngày 29-1-1980, Chính phủ ban hành Nghị định số 30/CP, về “Quy chế cho các tàu thuyền nước ngoài hoạt động trên các vùng biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; ngày 12-11-1982, Chính phủ ra tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam. Năm 1994, Việt Nam là quốc gia thứ 63 phê chuẩn UNCLOS năm 1982. Sau khi trở thành thành viên chính thức của UNCLOS năm 1982, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hóa các quy định của Công ước(2). Đặc biệt, năm 2012, Luật Biển Việt Nam được ban hành với hầu hết các nội dung tương thích với UNCLOS năm 1982.

Việt Nam ngày càng hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản lý, thực thi và bảo vệ chủ quyền biển, đảo(3). Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời” (Điều 1); “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” (Điều 53).

Luật Biển Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 21-6-2012, có hiệu lực từ ngày 1-1-2013 là văn bản pháp lý quan trọng, quy định một cách tổng thể các vấn đề liên quan đến biển, đảo theo đúng tinh thần UNCLOS năm 1982. Với 7 chương và 55 điều, Luật Biển Việt Nam quy định các nội dung chủ yếu như: Nguyên tắc, chính sách quản lý và bảo vệ biển; phạm vi và chế độ pháp lý các vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Việt Nam; các hoạt động trong vùng biển Việt Nam; tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ; bảo vệ tài nguyên và môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; phát triển kinh tế biển; tuần tra kiểm soát trên biển; hợp tác quốc tế về biển; xử lý vi phạm. Trong đó, có các điểm quan trọng cần chú ý như: 1- Tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các đảo, đặc biệt là quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; làm rõ thêm khái niệm về đảo, quần đảo, đá; quy định một cách đầy đủ hơn về việc xác định đường cơ sở phạm vi và chế độ pháp lý của các vùng biển, thềm lục địa Việt Nam; quy định rõ, hợp lý về quyền tự do hàng hải, hàng không trên vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam phù hợp với quy định trong UNCLOS năm 1982, bảo đảm quyền lợi biển của Việt Nam; 2- Các cơ quan, tổ chức và mọi công dân Việt Nam có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và thực hiện các biện pháp cần thiết bảo vệ chủ quyền biển, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phát triển kinh tế biển; 3- Dành một chương riêng về phát triển kinh tế biển, huy động mọi nguồn lực của Nhà nước, công dân, các tổ chức trong và ngoài nước, trên cơ sở nguyên tắc phát triển kinh tế biển phải gắn với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn trên biển; 4- Khẳng định Việt Nam chủ trương giải quyết các bất đồng, tranh chấp liên quan đến biển, đảo với các nước khác bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, phù hợp với pháp luật và thực tiễn quốc tế.

Các văn bản pháp luật trên là những cơ sở pháp lý quan trọng để phục vụ công cuộc phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền biển, đảo và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Mặt khác, thông qua những quy định pháp luật, Việt Nam thể hiện sự tích cực, quyết tâm và cam kết đối với việc tôn trọng và thực thi các quy định của UNCLOS năm 1982; thể hiện Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, quyết tâm phấn đấu vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Các quan điểm sai trái, thù địch về vấn đề biển, đảo

Biển Đông với nhiều lợi thế phát triển, đã và đang trở thành tâm điểm của sự cạnh tranh lợi ích, quyền lực và tầm ảnh hưởng của các nước lớn, với nhiều diễn biến phức tạp, nhạy cảm. Lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đã ráo riết đưa ra những quan điểm sai trái, xuyên tạc đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đã sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, các tờ báo, đài phát thanh phản động ở nước ngoài phát tán tài liệu, hình ảnh, video xuyên tạc các nội dung liên quan đến chủ quyền biển, đảo Việt Nam, tập trung vào một số nội dung:

Một là, quy chụp, bịa đặt, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Luận điệu mà họ thường rêu rao là Đảng, Nhà nước Việt Nam “xem nhẹ”, “làm ngơ”, không có những động thái kiên quyết trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia trên Biển Đông;... Họ nêu những “đề xuất”, “kiến nghị” đòi thay đổi chính sách ngoại giao của Việt Nam về chủ quyền biển, đảo.

Hai là, xuyên tạc, chống phá chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ của Việt Nam. Họ cho rằng Việt Nam vì “đường lối ngoại giao cây tre” nên không dám dùng lực lượng hải quân, cảnh sát biển để giải quyết tranh chấp, bất đồng trên biển. Chỉ trích khả năng chiến đấu, sức mạnh của lực lượng vũ trang ta; rằng Việt Nam không sử dụng vũ lực thì sẽ “mất biển, mất đảo, thế nước lâm nguy”; kêu gọi quân đội phải “đáp trả bằng vũ lực” với các hành động của các nước khác.

Ba là, lợi dụng diễn biến phức tạp, các vấn đề nhạy cảm trên Biển Đông để tuyên truyền, kích động dư luận xã hội chống phá Đảng, Nhà nước; kích động người dân tạo nên các phong trào “bài Trung”, “thoát Trung” hay “thân Mỹ”... Lợi dụng tinh thần yêu nước của quần chúng nhân dân để kêu gọi biểu tình, phản đối, bạo loạn, lật đổ, gây mất an ninh, trật tự,...

Bốn là, xuyên tạc, phá hoại đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa trong hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước ta. Các thế lực thù địch cho rằng, Việt Nam phải từ bỏ chính sách “bốn không”(4), rằng Việt Nam sẽ không thể đứng vững "nếu không tiến hành liên minh quân sự với một cường quốc bên ngoài”; để bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam cần phải liên minh quân sự,…

Cần khẳng định rằng, những luận điệu trên là hoàn toàn sai trái, xuyên tạc trắng trợn, phủ nhận những thành quả đạt được và quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Mục đích của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị là nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân; gây mất ổn định tình hình an ninh, chính trị đất nước; gây tâm lý bất an, hoài nghi, mất niền tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước; chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; làm tổn hại đến quan hệ của Việt Nam với các nước để Việt Nam rơi vào tình trạng đối đầu, bị cô lập. Mưu đồ sâu xa của các thế lực thù địch, phản động là thông qua vấn đề biển, đảo để thực hiện “diễn biến hòa bình” chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Luận cứ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong vấn đề biển, đảo

Thứ nhất, Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay đều khẳng định rõ ràng, nhất quán quan điểm: Chủ quyền biển, đảo và toàn vẹn lãnh thổ là thiêng liêng, không thể để bị xâm phạm(5); Việt Nam “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”(6); “Mọi hoạt động trên biển cần được tiến hành dựa trên cơ sở của UNCLOS năm 1982, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của các quốc gia ven biển, tại các vùng biển được xác lập phù hợp với Công ước”(7)... Những quan điểm này được Đảng, Nhà nước ta khẳng định nhiều lần, rõ ràng, công khai, minh bạch, không “làm ngơ”, hay “không kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển, đảo và lợi ích quốc gia trên biển”… như các đối tượng chống đối xuyên tạc, vu cáo.

Thứ hai, trên thực tế, mỗi khi chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông bị nước ngoài xâm phạm, Đảng và Nhà nước ta đều thể hiện quan điểm, thái độ kiên quyết phản đối những hành động xâm phạm, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Mặt khác, Việt Nam luôn chủ động, tích cực và kiên trì giải quyết từng bước những bất đồng tồn tại về biển, đảo với các nước liên quan, nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác, góp phần củng cố hòa bình, an ninh khu vực.

Thứ ba, là đất nước gánh chịu nhiều hậu quả đau thương, mất mát bởi chiến tranh, Việt Nam phản đối chiến tranh, xung đột dưới bất cứ hình thức nào. Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán quan điểm giải quyết các tranh chấp, bất đồng, khác biệt trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với UNCLOS năm 1982, pháp luật quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn trên biển. Kiên trì mục tiêu không để nước ngoài lấn chiếm nhưng cũng không để xảy ra xung đột, kiên trì tìm kiếm giải pháp lâu dài và yêu cầu các bên liên quan không có những hành động quá khích, cực đoan, làm phức tạp thêm tình hình, tuân thủ các cam kết đã ký kết, giải quyết mọi bất đồng trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế. Đồng thời, sẵn sàng về mọi mặt, quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền biển, đảo. Đây là biện pháp thể hiện sự kiên quyết nhưng khôn khéo, mềm dẻo về sách lược, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, thời điểm cụ thể để đạt được mục tiêu đề ra, không phải “không dám dùng vũ lực để bảo vệ chủ quyền” như những luận điệu xuyên tạc của các thế lực phản động, thù địch, phần tử cơ hội chính trị.

Thứ tư, Đảng và Nhà nước ta luôn ưu tiên dành mọi nguồn lực tốt nhất cho nhiệm vụ giữ vững chủ quyền biển, đảo. Các lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo từng bước được xây dựng, phát triển ngày càng vững mạnh, trong đó Hải quân Việt Nam được Đảng, Nhà nước ưu tiên đầu tư tiến thẳng lên hiện đại, có sự trưởng thành, lớn mạnh vượt bậc, đủ sức làm nòng cốt bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Bên cạnh đó, Việt Nam phát triển chiến lược “chiến tranh nhân dân” trên biển, tạo điều kiện thuận lợi để ngư dân an tâm bám biển, phát triển kinh tế biển; làm giàu từ biển. Chúng ta chủ trương bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, trong đó, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại làm nòng cốt. Đây cũng là sự khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta để đập tan những luận điệu xuyên tạc về khả năng chiến đấu của quân đội Việt Nam và sức mạnh vô địch của thế trận quốc phòng toàn dân.

Thứ năm, quan điểm cho rằng “Việt Nam cần liên minh quân sự với cường quốc bên ngoài để giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” là quan điểm sai lầm, thiếu cơ sở, “lợi bất cập hại”, đi ngược lại đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta. Bởi là một quốc gia có biển, nằm ở vị trí thuận lợi, nếu Việt Nam tiến hành liên minh quân sự với một cường quốc ngoài khu vực thì chắc chắn sẽ làm gia tăng bất ổn ở khu vực, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường an ninh và phát triển của đất nước. Mặt khác, cần nhận thức rõ rằng, trong bối cảnh các nước đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc thì không có một cường quốc nào lại sẵn sàng đối đầu với một cường quốc khác để bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ cho một nước thứ ba. Cái giá phải trả cho việc lệ thuộc vào các nước lớn sẽ là rất lớn. Cần khẳng định rằng, sức mạnh bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam không xuất phát từ tham gia liên minh với một cường quốc nào mà là sức mạnh tổng hợp của đất nước, sức mạnh của toàn dân, của ý chí tự chủ, tự cường dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế. Thực tế minh chứng, nhờ nhất quán và thực hiện đúng đường lối đối ngoại này, Việt Nam đã tạo được sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đem lại lòng tin chiến lược - một nền tảng hết sức quan trọng cho các đối tác, các quốc gia trong quan hệ quốc tế.

Thứ sáu, thời gian qua, trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc đứng trước những khó khăn, thách thức lớn, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quân và dân ta đã triển khai tích cực các hoạt động bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Chúng ta đã “Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp, bảo vệ được chủ quyền biển, đảo, vùng trời và giữ được hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”(8), vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng lớn mạnh, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(9). Thực tế đó là bằng chứng đanh thép đập tan những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch về chủ quyền biển, đảo Việt Nam.

Một số định hướng bảo vệ chủ quyền biển, đảo

Để bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc, thời gian tới cần chú trọng thực hiện tốt một số định hướng sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước về bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Tập trung xây dựng tổ chức đảng trong các lực lượng tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo, các địa phương ven biển trong sạch, vững mạnh. Đồng thời, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển, đảo từ Trung ương đến địa phương bảo đảm hiện đại; xây dựng lực lượng bảo vệ chủ quyền, thực thi pháp luật trên biển vững mạnh; xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, phẩm chất tốt. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan, giữa Trung ương với địa phương về công tác biển, đảo.

Tàu kiểm ngư tuần tra khu vực đảo An Bang, huyện đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Hai là, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới.

Rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về biển, đảo theo hướng phát triển bền vững, bảo đảm tính khả thi, đồng bộ, thống nhất, phù hợp với chuẩn mực luật pháp và điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Tạo hành lang pháp lý vững chắc để bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Ba là, phát huy sức mạnh toàn dân tộc và thực hiện các biện pháp cần thiết cho sự nghiệp đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân đối với chủ quyền biển, đảo. Củng cố niềm tin và tạo sự đồng thuận, nhất trí cao trong toàn hệ thống chính trị và nhân dân về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Chăm lo xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, trách nhiệm, sự cống hiến, sức sáng tạo của nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo và thực thi pháp luật trên biển.

Bốn là, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh; giữa khai thác và bảo vệ biển, đảo.

Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải quán triệt, cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo.

Năm là, chủ động, tích cực đấu tranh có hiệu quả đối với các luận điệu sai trái, thù địch về bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng về tình hình biển, đảo, nâng cao nhận thức, trách nhiệm về bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin trong việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Tăng cường bảo đảm an ninh mạng và áp dụng các giải pháp kỹ thuật bóc gỡ, ngăn chặn những thông tin xấu, độc về tình hình Biển Đông nói chung và biển, đảo Việt Nam nói riêng. Đặc biệt, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân phải hết sức tỉnh táo, cảnh giác trước các chiêu trò xuyên tạc, suy diễn của các thế lực thù địch, phản động; tích cực, chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Sáu là, chủ động tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, đảo.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, muốn bảo vệ chủ quyền biển, đảo, chúng ta phải phát huy tinh thần tự lực, tự cường, đồng thời, phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa; chủ động, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền và các lợi ích hợp pháp, chính đáng của quốc gia trên biển. Cũng cần xác định rằng, giải quyết tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề khó khăn, lâu dài, không thể nóng vội, cần kiên trì hợp tác tìm kiếm biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, không làm phức tạp thêm tình hình, bảo vệ lợi ích chính đáng của các nước trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS năm 1982. Tăng cường công tác đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại quốc phòng với các nước đang có mâu thuẫn, tranh chấp trên biển để giảm bớt căng thẳng, không làm phức tạp hơn tình hình, từng bước xây dựng quan hệ thân thiện, giải quyết mâu thuẫn, hình thành môi trường thuận lợi cho bảo vệ chủ quyền biển, đảo./.

------------------------------
(1) Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr. 104 - 105
(2) Bộ Luật Hàng hải năm 1991; Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 1991; Luật Dầu khí năm 1993; Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng năm 1997; Pháp lệnh Lực lượng cảnh sát biển Việt Nam năm 1998; Luật Biên giới quốc gia năm 2003; Luật Thủy sản năm 2003;...
(3) Luật Biên giới quốc gia 2003 (sửa đổi, bổ sung năm 2020); Luật Bảo vệ môi trường năm 2022 (thay thế Luật Bảo vệ môi trường các năm 1993, 2005 và 2014); Luật Dầu khí năm 2023 (thay thế Luật Dầu khí năm 1993 sửa đổi các năm 2005, 2008); Luật Thủy sản năm 2017 (thay thế Luật Thủy sản năm 2003); Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015 (thay thế BộlLuật Hàng hải Việt Nam năm 2005); Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015; Luật Quy hoạch năm 2017; Luật Cảnh sát biển Việt Nam năm 2018
(4) Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế
(5) Điều 11, Hiến pháp năm 2013
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 157
(7) Hùng Cường: “Việt Nam lên tiếng trước việc Trung Quốc đưa tàu sân bay đến Biển Đông”, ngày 29-4-2021, https://vov.vn/chinh-tri/viet-nam-len-tieng-truoc-viec-trung-quoc-dua-tau-san-bay-den-bien-dong-853924.vov
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,  Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 146
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 25