Quản lý các hệ thống phân phối hàng hóa nhằm phát triển bền vững trị trường trong nước
Gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới với việc mở cửa thị trường dịch vụ, đặc biệt là hệ thống phân phối sẽ có tác dụng làm cho hệ thống thị trường của Việt Nam mang tính linh hoạt và cạnh tranh hơn, làm thay đổi tư duy về kinh doanh thương mại đối với các nhà phân phối và kinh doanh, dịch vụ trong nước. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tế của quá trình hội nhập và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường nội địa, hệ thống phân phối hàng hóa nước ta đang còn nhiều việc phải làm.
I - Đánh giá về các hệ thống phân phối hàng hóa
Từ khi thực hiện đổi mới về hoạt động thương mại, đầu tư nước ngoài và khuyến khích đầu tư trong nước, hệ thống phân phối hàng hóa Việt Nam đã tiếp cận với các loại hình phân phối văn minh, hiện đại và đang thích ứng với nền kinh tế thị trường. Số doanh nghiệp, cơ sở phân phối dân doanh, đặc biệt là số hộ và người buôn bán nhỏ tăng lên nhanh chóng đã góp phần làm cho tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng trưởng liên tục hằng năm, tốc độ tăng bình quân giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước (xem bảng).
Cơ cấu hệ thống phân phối hàng hóa Việt Nam đã và đang có những biến đổi sâu sắc, từ chỗ chủ yếu do Nhà nước, hợp tác xã chiếm độc quyền đã chuyển sang ngành bán lẻ đa loại hình với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Nhờ đó đã từng bước tạo ra một thị trường bán lẻ có tính cạnh tranh cao và nhiều cơ hội lựa chọn cho người tiêu dùng mua sắm được thuận tiện, văn minh. Nếu như năm 1996, tỷ trọng trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng của khu vực kinh tế nhà nước là 21,3%, của khu vực kinh tế ngoài nhà nước là 77,5% và của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 1,2% thì 10 năm sau (2006) tỷ trọng trên đã có sự chuyển dịch mạnh, tương ứng là 12,4%, 83,6% và 4,0%.
TT |
Giai đoạn/năm |
ĐVT |
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng |
I |
Giai đoạn 1996-2000 |
|
|
Năm 1996 |
tỉ đồng |
145.874 | |
Năm 2000 |
tỉ đồng |
220.421 | |
Tốc độ tăng bình quân hằng năm |
% |
11 | |
II |
Giai đoạn 2001-2005 |
|
|
Năm 2001 |
tỉ đồng |
245.315 | |
Năm 2005 |
tỉ đồng |
480.300 | |
Tốc độ tăng bình quân hằng năm |
% |
18,3 | |
III |
Năm 2006 |
tỉ đồng |
575.000 |
Tốc độ tăng so với năm trước |
% |
20 | |
Năm 2007 |
tỉ đồng |
726.113 | |
Tốc độ tăng so với năm trước |
% |
23,3 |
Cùng với sự phát triển kinh tế -xã hội và quá trình đổi mới ngành bán lẻ, các loại hình tổ chức bán lẻ theo mô hình của các nước tiên tiến như: siêu thị tổng hợp, siêu thị chuyên doanh, cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng tiện lợi, cửa hàng hội viên dạng nhà kho, các loại chuỗi cửa hàng và trung tâm thương mại đã lần lượt xuất hiện ngày càng nhiều ở các địa phương, nhất là khu vực đô thị để đáp ứng nhu cầu mua sắm đa dạng và ngày càng cao của các đối tượng tiêu dùng ở Việt Nam. Không ít nhà sản xuất trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã thiết lập được hệ thống cửa hàng theo mô hình hiện đại chuyên bán hàng hóa mang thương hiệu của mình...
Phương thức hoạt động, công nghệ quản lý và điều hành kinh doanh đang trên đà phát triển theo hướng văn minh, hiện đại và chuyên nghiệp. Cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng thương mại được chăm lo đầu tư, củng cố và nâng cấp một bước. Bên cạnh việc bán hàng qua cửa hàng, các doanh nghiệp bán lẻ còn sử dụng hình thức bán hàng không qua cửa hàng, như bán hàng qua ti-vi, bán hàng trực tuyến... Hình thức bán hàng này cũng đã được áp dụng và đang phát triển mạnh ở Việt Nam, nhất là hình thức bán hàng trực tuyến (với việc hình thành các “siêu thị ảo”, “cửa hàng ảo”... trên mạng)... Ngoài ra, hình thức bán lẻ hàng hóa qua máy bán hàng tự động cũng đã và đang được một số doanh nghiệp nghiên cứu, áp dụng vào Việt Nam...
Hạn chế và yếu kém: Hiện có quá ít những doanh nghiệp và những hệ thống phân phối đủ mạnh, có khả năng tài chính, có mạng lưới kinh doanh, có lực lượng con người, có công nghệ quản lý và điều hành phù hợp với xu thế hiện đại hóa và chuyên nghiệp hóa, tương xứng với các đối tác quốc tế trong quá trình hội nhập và mở cửa. Trên thị trường thiếu những doanh nghiệp và hệ thống phân phối nòng cốt, bảo đảm kiểm soát và chi phối được thị trường xã hội, nhất là trong những tình huống căng thẳng, gay gắt... Hầu hết các doanh nghiệp thương mại đều chưa có một cấu trúc phân phối được tổ chức mang tính hệ thống, bám sát quy trình vận động của hàng hóa từ thượng nguồn đến hạ nguồn, trải rộng trên các địa bàn, trong đó quan trọng nhất là hệ thống phân phối chuyên nghiệp, bao gồm hệ thống phân phối trực thuộc doanh nghiệp và hệ thống đại lý do doanh nghiệp lập ra và quản lý, kiểm soát hoạt động.
Thúc đẩy sự phát triển thị trường nội địa, tạo lập hệ thống phân phối hiện đại, thay đổi tập quán tiêu dùng và phương thức kinh doanh thương mại, thực hiện các cam kết WTO sẽ làm cho hệ thống chính sách thương mại Việt Nam phù hợp hơn với cơ chế thị trường. |
Quá nhiều loại hình tổ chức mua bán và thương nhân nhỏ lẻ (chợ, cửa hàng độc lập, hộ kinh doanh cá thể) không được định hình phát triển, không được tổ chức thành đối tượng của quản lý nhà nước, hoạt động tự do và độc lập “ngoài vòng kiểm soát”; làm cho thị trường trở nên manh mún, tản mạn, lộn xộn và rối loạn, pháp luật của Nhà nước và lợi ích của người tiêu dùng không được tôn trọng. Mô hình quản lý chợ còn nửa vời, không có hiệu lực và hiệu quả. Bên trên các cửa hàng độc lập và các hộ cá thể không có một đơn vị hoặc chủ thể nào làm đầu mối tổ chức và kinh doanh.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trên là do nhận thức, quan điểm về lưu thông hàng hóa và thị trường chưa đầy đủ, chưa rõ ràng và thiếu nhất quán. Lâu nay, trong nhận thức và quan điểm luôn coi sản xuất là gốc, mọi vấn đề đều quy về sản xuất. Do nhận thức và quan điểm như vậy nên thị trường và thương mại trong nước ít được quan tâm đầu tư phát triển. Nhà nước chưa phát huy được chức năng tổ chức thị trường cũng như quy hoạch, thiết kế chính sách, định hướng phát triển và quản lý thị trường.
Trong thời đại hiện nay, lưu thông hàng hóa và thị trường phải là khâu năng động và linh hoạt nhất của chu trình tái sản xuất, là điểm nút xung yếu và có tác động chi phối sự vận hành đời sống kinh tế- xã hội.
II - Những giải pháp chủ yếu
Quán triệt Nghị quyết số 12/NQ-TW, ngày 03-01-1996, của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, thời gian qua, công tác quản lý nhà nước về thương mại nói chung và quản lý hệ thống phân phối hàng hóa nói riêng đã được quan tâm hơn. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật về thị trường nội địa và về hệ thống phân phối hàng hóa đã được bổ sung hoàn thiện, ban hành mới... đang góp phần từng bước lập lại trật tự, kỷ cương trên thị trường, kiềm chế các vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại nói chung cũng như trong quản lý và phát triển hệ thống phân phối hàng hóa nói riêng.
Để tiếp tục tăng cường quản lý nhà nước đối với các hệ thống phân phối hàng hóa nhằm ổn định và phát triển bền vững thị trường trong nước cần tập trung vào các giải pháp sau:
Một là, tập trung thiết kế và hoạch định chính sách phát triển, xác lập cơ chế quản lý nhà nước đối với 3 hệ thống phân phối chủ yếu sau:
- Hệ thống phân phối hàng hóa trọng yếu đối với sản xuất và đời sống (xăng dầu, sắt thép xây dựng, phân bón, than, xi-măng, gạo, thuốc chữa bệnh);
- Hệ thống phân phối tổng hợp hàng hóa tiêu dùng;
- Mạng lưới phân phối (chủ yếu là bán lẻ) địa phương.
Hai là, phát triển hệ thống bán lẻ của các tập đoàn, tổng công ty lớn hoạt động trên thị trường cả nước.
Các ngành, nhóm hàng quan trọng (sắt thép, xi-măng, xăng dầu, lương thực, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, dược phẩm...) hoặc đặc thù (rượu - bia, thuốc lá, chất nổ, hóa chất độc hại...) có tác động lớn đến sản xuất, đời sống, sức khỏe của người dân và môi trường sinh thái. Mô hình tổ chức lưu thông các ngành hàng này vừa phải phù hợp với tính chất và trình độ của sản xuất, tiêu dùng vừa phải đáp ứng được yêu cầu quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Định hướng chủ yếu để các doanh nghiệp hình thành và phát triển mô hình tổ chức lưu thông là:
- Thiết lập và phát triển mối liên kết dọc có quan hệ gắn kết chặt chẽ, ổn định và ràng buộc trách nhiệm trên từng công đoạn của quá trình lưu thông từ sản xuất, xuất nhập khẩu đến bán buôn và bán lẻ thông qua các quan hệ trực tuyến hoặc quan hệ đại lý, mua bán. Doanh nghiệp đầu nguồn (sản xuất, nhập khẩu) phải kiểm soát và chịu trách nhiệm với toàn bộ hệ thống, từ chi phí, giá cả, nguồn gốc, số lượng, chất lượng và nhãn hiệu hàng hóa đến phương thức và chất lượng phục vụ... Để hình thành hệ thống kinh doanh này, cần phát huy vai trò định hướng và tổ chức thị trường của các doanh nghiệp lớn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia nhằm tạo ra một thị trường ngày càng cạnh tranh.
- Thiết lập hệ thống phân phối trên cơ sở xây dựng và phát triển hệ thống tổng kho bán buôn, hệ thống trung tâm logisstics được bố trí theo khu vực thị trường để tiếp nhận hàng hóa từ các cơ sở sản xuất, nhập khẩu và cung ứng hàng hóa cho mạng lưới bán buôn, bán lẻ trên địa bàn.
- Khuyến khích các doanh nghiệp lớn kinh doanh các nhóm, mặt hàng có mối liên hệ trong tiêu dùng tạo mối liên kết ngang trong khâu phân phối để giảm chi phí đầu tư, chi phí lưu thông của doanh nghiệp và giảm chi phí của xã hội nhờ tiết kiệm được thời gian mua sắm liên kết ngang trong khâu bán buôn thông qua lập chung trung tâm giao dịch, hệ thống tổng kho bán buôn, hệ thống trung tâm logistics; kinh doanh xăng dầu liên kết ngang trong khâu bán lẻ với kinh doanh hàng công nghiệp tiêu dùng, thực phẩm chế biến, hàng lưu niệm, dịch vụ du lịch, ăn uống, giải trí... thông qua mô hình chuỗi cửa hàng tiện lợi, các "trạm dịch vụ" hoặc “trạm ven lộ” cạnh các cửa hàng xăng dầu tại các địa bàn có mật độ dân cư cao và đặc biệt là dọc các tuyến giao thông trọng điểm.
Hướng chủ yếu để Nhà nước can thiệp vào thị trường ngành hàng này là:
- Áp dụng quy chế về tổ chức và kiểm soát hệ thống phân phối nhằm bảo đảm sự đồng bộ, tính tương thích giữa cơ chế quản lý, điều tiết của Nhà nước với việc tổ chức lưu thông theo cơ chế thị trường.
- Theo dõi sát tình hình diễn biến cung - cầu, giá cả của thị trường thông qua hệ thống thu thập và xử lý thông tin nhanh.
- Chủ động can thiệp kịp thời bằng các công cụ gián tiếp là chủ yếu (như tín dụng, lãi suất, thuế, dự trữ quốc gia...) để tác động đến thị trường thông qua các doanh nghiệp đầu nguồn.
- Chỉ đạo các lực lượng tăng cường kiểm tra, kiểm soát và xử lý mạnh các hành vi vi phạm để nhanh chóng thiết lập lại trật tự của thị trường.
Ba là, phát triển một số loại hình tổ chức phân phối bán lẻ vừa và nhỏ theo hướng hiện đại và chuyên nghiệp.
Nhận thức và quan điểm luôn coi sản xuất là gốc mà coi nhẹ lưu thông hàng hóa và thị trường nên không quan tâm đầu tư phát triển thị trường và thương mại trong nước. |
- Trung tâm thương mại, siêu thị: Phát triển mạnh các loại hình này tại các khu vực thành thị; trong đó quy mô và trình độ tổ chức giảm dần từ hạng I đến hạng II và hạng III tương ứng theo thứ tự từ đô thị loại I trở xuống đến các thị xã, các khu công nghiệp tập trung, khu kinh tế lớn, khu đô thị mới, khu du lịch, khu cư dân tập trung, các cửa khẩu và các thị trấn, thị tứ. Trong mỗi loại hình, từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động theo hướng văn minh và hiện đại, liên kết thành các hệ thống, các chuỗi phân phối.
- Trung tâm mua sắm, khu thương mại - dịch vụ tập trung: Tại vùng ngoại vi (từ vành đai 3 trở ra) của các đô thị lớn, hình thành và phát triển các khu mua sắm, khu thương mại - dịch vụ tập trung trên cơ sở liên kết và hội tụ các trung tâm thương mại lớn, các đại siêu thị, các trung tâm cung ứng dịch vụ, trung tâm hội chợ - triển lãm cùng với các công trình văn hóa, thể thao vui chơi giải trí tạo ra một không gian rộng lớn phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của đông đảo cư dân đô thị và khách du lịch, nhất là vào những ngày nghỉ cuối tuần.
- “Siêu thị ảo”, “chợ ảo”, nhà mua bán trung gian trên in-tơ-net: Hình thành và phát triển các “sàn giao dịch ảo”, “siêu thị ảo”, “chợ ảo”, các loại hình doanh nghiệp chuyên mua bán trung gian trên in-tơ-net trên cơ sở ứng dụng các tiến bộ của khoa học về công nghệ thông tin, trước hết là tại các đô thị lớn với các mặt hàng có chất lượng ổn định, bao gói quy chuẩn, giá cả dễ xác định.
- Các loại hình cửa hàng tiện lợi, chuyên ngành, tổng hợp: Phát triển hệ thống cửa hàng tiện lợi, chuyên ngành, tổng hợp... gắn với khu vực dân cư, phù hợp với xu hướng thỏa mãn nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng ở thành thị và nông thôn đối với từng nhóm, mặt hàng cụ thể. Thông qua quá trình tích tụ, tập trung, các doanh nghiệp lớn liên kết các cửa hàng độc lập lại trong cùng một hệ thống bằng các hình thức đại lý, nhượng quyền kinh doanh.
- Các công ty thương mại bán lẻ hiện đại: Với hệ thống trung tâm thương mại, siêu thị, chuỗi cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng tiện lợi... công ty sẽ liên kết với các đơn vị sản xuất hàng tiêu dùng, các công ty kinh doanh nhập khẩu (thực phẩm chế biến, hàng công nghiệp tiêu dùng), các gia trại, các hợp tác xã, các chợ đầu mối (hàng thực phẩm tươi sống, rau - củ - quả) thông qua hợp đồng mua bán và đơn đặt hàng để tạo nguồn hàng ổn định lâu dài, với khối lượng lớn, trung chuyển về các trung tâm logistics, tổng kho bán buôn của mình và từ đó, cung ứng thường xuyên cho các đơn vị bán lẻ trong hệ thống.
Bốn là, định hướng tổ chức các hộ bán lẻ, các cửa hàng bán lẻ độc lập phát triển thành doanh nghiệp hoặc cơ sở trực thuộc doanh nghiệp bán lẻ.
Từ nay đến năm 2010 và 2020, ở nông thôn miền núi nước ta, mạng lưới chợ dân sinh vẫn là kênh lưu thông hàng hóa chủ yếu. |
Cùng với các loại hình bán lẻ hiện đại của các công ty, củng cố mô hình cửa hàng độc lập, nhất là của hàng triệu hộ kinh doanh, tạo ra một mạng lưới bán lẻ rộng lớn, phủ khắp thị trường để tiếp cận trực tiếp người tiêu dùng, tác động và phản ánh đúng mặt bằng giá cả, thu hút một lực lượng lao động lớn của xã hội. Thông qua các hình thức đại lý, hợp đồng mua bán ổn định, tham gia các chuỗi (bằng liên kết, liên doanh, nhượng quyền...)... để kết nối các cửa hàng độc lập với các doanh nghiệp sản xuất, phân phối và xuất nhập khẩu, thông qua các hoạt động quản lý nhà nước (đặc biệt là ở cấp quận, huyện) hướng các hộ bán lẻ kinh doanh văn minh, có trách nhiệm với người tiêu dùng và với xã hội. Các cửa hàng bán lẻ phải trở thành các “cứ điểm” kinh doanh, bám sát sản xuất và tiêu dùng, trở thành phương cách cơ bản để mở rộng lưu thông, làm công cụ kinh tế để thực hiện quá trình điều tiết cung cầu, giá cả thị trường.
Cùng với việc thực hiện cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải có chính sách, giải pháp bảo vệ hệ thống bán lẻ trong nước, nhất là hệ thống bán lẻ của hàng triệu hộ kinh doanh.
Năm là, tổ chức, phát triển và quản lý các loại hình chợ theo thị trường địa bàn.
- Chợ đầu mối bán buôn: Do tầm quan trọng của các chợ đầu mối đối với tiêu thụ nông sản - thực phẩm cần hình thành và phát triển mạng lưới các chợ đầu mối, chuyên doanh phát luồng bán buôn lớn (hạng I, II) tại các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, ổn định và đủ lớn, có vị trí và điều kiện giao thông thuận tiện, hoặc ở ngoại vi các thành phố, thị xã, gần các trung tâm tiêu thụ, đầu mối xuất khẩu tại đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, Tây Nguyên và ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh... Ngoài ra, mỗi tỉnh xây mới, cải tạo nâng cấp từ 1 - 3 chợ đầu mối bán buôn tại các vùng sản xuất nông sản và tiêu dùng tập trung của tỉnh, thành phố.
- Chợ bán lẻ: ở địa bàn nông thôn, mạng lưới chợ dân sinh ở nông thôn, miền núi vẫn là kênh lưu thông hàng hóa chủ yếu trong thời kỳ từ nay đến năm 2010 và 2020. Tập trung vào việc cải tạo, di dời và xây mới để bảo đảm có đủ chợ dân sinh cơ sở có quy mô thuộc hạng III ở các xã, cụm xã đáp ứng nhu cầu trao đổi mua bán hàng hóa phục vụ sản xuất và đời sống hằng ngày của nhân dân. Tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới... sản xuất và đời sống của bà con còn nhiều khó khăn cần gắn hoạt động trao đổi hàng hóa qua chợ với hoạt động văn hóa - xã hội và du lịch. Đồng thời, cải tạo, nâng cấp hoặc xây mới các chợ thị trấn, thị tứ, chợ cửa khẩu thành các chợ lớn hơn, thành chợ trung tâm của huyện hoặc của một tiểu vùng gồm nhiều xã trong huyện, làm hạt nhân của mạng lưới các chợ dân sinh vệ tinh chung quanh. Vị trí và cấu trúc của chợ phải được thiết kế hợp lý theo công năng của chợ và phù hợp với đặc điểm hoạt động của từng loại chợ, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa cũng như phong tục, tập quán trao đổi hàng hóa của từng địa phương.
Ở địa bàn thành thị: Các chợ nội thành, nội thị từng bước được tổ chức lại và phát triển theo 3 hướng:
Hạn chế xây mới (trừ đô thị mới), chủ yếu là cải tạo, nâng cấp thành các chợ trung tâm của quận, thị xã, thành phố với quy mô thuộc hạng I và II, khang trang và hiện đại. Chợ này cũng có thể được bố trí trong các trung tâm mua sắm, trung tâm thương mại theo mô hình chợ truyền thống - siêu thị - trung tâm thương mại. Mỗi chợ tổng hợp bán buôn, bán lẻ hạng I trên địa bàn cả nước được phát triển như hạt nhân để hình thành các khu trung tâm thương mại của tỉnh, vừa có vai trò phát luồng hàng hóa đến các chợ bán lẻ tổng hợp trên địa bàn, vừa là các trung tâm thương mại - dịch vụ tổng hợp của tỉnh.
Chuyển hóa chợ hạng III thành các siêu thị nhỏ, cửa hàng tiện lợi bán lẻ hàng nhật dụng.
Di chuyển ra vùng ngoại vi hợp thành các chợ đầu mối tổng hợp hoặc chợ chuyên ddeoanh phát luồng bán buôn là chính, trước hết là các chợ đầu mối nông sản - thực phẩm.
Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh với mục tiêu đào tạo đáp ứng nhu cầu của xã hội và doanh nghiệp  (30/11/2008)
Giới thiệu chính sách mới trên các số công báo từ ngày 17-11-2008 đến ngày 29-11-2008  (30/11/2008)
Vị trí cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện mới  (30/11/2008)
Những đặc trưng cơ bản của bộ máy quản lý đất nước và hệ thống chính trị nước ta trước thời kỳ đổi mới  (30/11/2008)
Ðối thoại về vai trò của báo chí trong phòng, chống tham nhũng  (29/11/2008)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên