Đổi mới quan điểm về kinh tế tư nhân - niềm tin lớn ở cuộc chơi song phẳng
Tác phẩm “Đổi mới quan điểm về kinh tế tư nhân – niềm tin lớn ở cuộc chơi song phẳng” của tác giả Phương Liên, Nhật Nam, Báo điện tử Chính phủ đoạt Giải A - Giải Búa liềm vàng lần thứ II – năm 2017.
Bài 1: Một quyết tâm chính trị mới: Tạo đà cho kinh tế tư nhân phát triển
Nghị quyết đã thể hiện một quyết tâm chính trị mới của Đảng và Nhà nước nhằm tạo đà cho kinh tế tư nhân thật sự phát triển lành mạnh, cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Trong thời gian qua, kinh tế tư nhân (KTTN) luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, điều đó được thể hiện trong nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Đảng, điển hình là Nghị quyết 14-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về “tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”. Tuy nhiên, sau 15 năm, KTTN chưa thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế và còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Trong xu thế phát triển hiện nay, để thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, vấn đề phát huy nội lực trong nước để tạo đà cho các chủ thể trong nền kinh tế, đặc biệt là đối với khu vực KTTN phát triển nhanh và bền vững đang đặt ra vấn đề cấp thiết.
Trong bối cảnh đó, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết 10-NQ/TW về “phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, nghị quyết đã thể hiện một quyết tâm chính trị mới của Đảng và Nhà nước nhằm tạo đà cho KTTN thật sự phát triển lành mạnh, cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Nghị quyết xác định rõ hơn và nhấn mạnh việc phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Quan điểm mới này nhằm tiếp tục khẳng định, cụ thể hóa rõ hơn nhận thức, tư duy nhất quán và liên tục phát triển của Đảng đối với phát triển KTTN.
Mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân
Nghị quyết nêu: “Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần phát triển kinh tế-xã hội nhanh, bền vững, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Do vậy, Nghị quyết xác định: “Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ”.
Định hướng phát triển cho KTTN cụ thể và phù hợp hơn với bối cảnh và điều kiện mới. Đó là: Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỉ trọng đóng góp trong GDP.
Xoá bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển KTTN lành mạnh và đúng định hướng. Phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước của KTTN, đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực, nhất là phòng, chống mọi biểu hiện của "chủ nghĩa tư bản thân hữu", quan hệ "lợi ích nhóm", thao túng chính sách, cạnh tranh không lành mạnh để trục lợi bất chính.
Kinh tế tư nhân được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Phát huy phong trào khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo; nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các hộ kinh doanh tự nguyện liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác hoặc hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn KTTN đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước, có đủ khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu.
Khuyến khích KTTN tham gia góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hoá hoặc Nhà nước thoái vốn. Thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết sản xuất, kinh doanh, cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo mạng sản xuất, chuỗi giá trị thị trường giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự lan toả rộng rãi về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Nghị quyết đã nêu ra mục tiêu tổng quát phát triển KTTN: “Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần phát triển kinh tế-xã hội nhanh, bền vững, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Bên cạnh đó, trong định hướng phát triển kinh tế tư nhân, Nghị quyết cũng đề cao vai trò và trách nhiệm của đội ngũ doanh nhân Việt Nam nhằm bảo đảm tính định hướng XHCN trong phát triển KTTN: “Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, tinh thần tự lực, tự cường, lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, gắn bó với lợi ích của đất nước và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của các chủ doanh nghiệp. Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng vững mạnh, có ý thức chấp hành pháp luật, trách nhiệm với xã hội và kỹ năng lãnh đạo, quản trị cao; chú trọng xây dựng văn hoá doanh nghiệp, đạo đức doanh nhân”.
Về mục tiêu cụ thể, trong quá trình tổng kết, Đề án căn cứ vào các nguồn tài liệu, như: Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII; Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 1/11/2016 về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế; Nghị quyết số 142/2016/QH13 của Quốc hội về “Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020”; Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về “Hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020”; các số liệu của Tổng cục Thống kê, một số nghiên cứu chuyên sâu khác về kinh tế Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế, trong đó có Báo cáo Việt Nam 2035 do Chính phủ phối hợp với Ngân hàng Thế giới xây dựng... để nghiên cứu, phân tích một cách khoa học nhằm xác định các mục tiêu cụ thể này; thảo luận kỹ với các ban, bộ, ngành và địa phương cũng như các chuyên gia trong nước và quốc tế. Đây là căn cứ để Nghị quyết mới đề ra các mục tiêu cụ thể về chỉ tiêu số lượng doanh nghiệp hoạt động; tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ đóng góp trong GDP; tốc độ tăng năng suất lao động, trình độ công nghệ, chất lượng nhân lực vànăng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong từng giai đoạn phát triển mới đối với KTTN.
Những nhiệm vụ và giải pháp lớn
Trên cơ sở kết quả tổng kết, Nghị quyết đề ra mục tiêu và 5 nhiệm vụ và giải pháp lớn, trong đó có hơn 30 giải pháp cụ thể để xử lý đồng bộ các điểm nghẽn trong phát triển KTTN, nhằm phát triển mạnh KTTN thực sự trở thành một động lực quan trọng trong nền kinh tế; các giải pháp về cơ chế, chính sách cụ thể, toàn diện và phù hợp với từng chủ thể trong nền kinh tế nói chung và trong khu vực KTTN nói riêng; gắn kết bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là hệ thống những nhiệm vụ và giải pháp lớn mới nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và đáp ứng được những yêu cầu phát triển của KTTN trong bối cảnh nước ta đang tích cực thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các giải pháp đã đưa ra mang tính đồng bộ, tổng thể, từ nhận thức, tư tưởng cho tới các giải pháp cụ thể như: Thống nhất cao về nhận thức, tư tưởng, hành động trong triển khai các chủ trương, nghị quyết của Đảng về phát triển KTTN; tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển KTTN; hỗ trợ KTTN đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội, xã hội-nghề nghiệp đối với KTTN.
Trong những nhiệm vụ và giải pháp lớn, nổi bật nhất là hai nhóm giải pháp mang tính đột phá. Nhóm giải pháp về tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển KTTN gồm: Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô vững chắc, kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt theo cơ chế thị trường.
Tạo điều kiện cho các hộ gia đình, cá thể kinh doanh với quy mô ngày càng lớn, hiệu quả cao hơn, chuyển đổi sang hoạt động kinh doanh theo mô hình doanh nghiệp. Sớm phát triển các tập đoàn KTTN đa sở hữu có khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước và quốc tế. Bảo đảm các cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển KTTN phải phù hợp với nguyên tắc thị trường và thúc đẩy tính tự chủ, cạnh tranh của KTTN.
Rà soát, xóa bỏ các cơ chế, chính sách tạo ra bất bình đẳng giữa KTTN và các thành phần kinh tế khác, giữa các chủ thể của KTTN, nhất là trong cạnh tranh và tiếp cận nguồn lực xã hội, các yếu tố sản xuất, cơ hội kinh doanh, tham gia thị trường, mà trọng tâm là đất đai, vốn, nguồn lực của Nhà nước. Tăng cường tính minh bạch đối với độc quyền nhà nước, độc quyền doanh nghiệp và kiểm soát độc quyền kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.
Phát triển kết cấu hạ tầng đầy đủ. Phát triển nhanh hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh và tạo điều kiện thuận lợi cho KTTN tiếp cận, sử dụng thuận lợi, bình đẳng với chi phí hợp lý, đồng thời bảo đảm tính công khai, minh bạch.
Tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn lực, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về đất đai, quản lý tài nguyên và môi trường tạo điều kiện thuận lợi cho KTTN tiếp cận đất đai, các nguồn tài nguyên một cách minh bạch, bình đẳng theo cơ chế thị trường phục vụ sản xuất kinh doanh. Cơ cấu lại và phát triển nhanh, an toàn, hiệu quả các thị trường tài chính, nhất là hệ thống các tổ chức tín dụng và thị trường vốn, tạo điều kiện bình đẳng, thuận lợi cho KTTN tiếp cận nguồn vốn; phát triển mạnh mẽ, thông suốt các thị trường hàng hóa, dịch vụ; có cơ chế, chính sách tạo điều kiện để KTTN tích cực tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Với nhóm giải pháp về hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích, hỗ trợ KTTN đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ tiên tiến; thúc đẩy đổi mới, sáng tạo nhằm nâng cao năng suất lao động. Hoàn thiện pháp luật và thực hiện có hiệu quả các biện pháp, quy định bảo đảm quyển sở hữu trí tuệ, thương hiệu. Đẩy mạnh thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển nguồn nhân lực với hệ thống chính sách, giải pháp đồng bộ. Khuyến khích, động viên và lan tỏa tinh thần, ý chí khởi nghiệp, kinh doanh và đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội, nhất là cộng đồng doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Nghị quyết mới cũng đề ra các giải pháp quan trọng khác là: Khuyến khích các doanh nghiệp của tư nhân đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nhất là lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao (được lồng ghép trong nhiều nội dung khác nhau của các nhóm giải pháp). Các giải pháp cụ thể đối với từng loại đối tượng doanh nghiệp như các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp khởi nghiệp, các doanh nghiệp hoạt động trong khu vực phi chính thức. Tăng cường kết nối, liên kết giữa các doanh nghiệp tư nhân với nhau, doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI.
Nâng cao tính hiệu quả trong hỗ trợ của Nhà nước đối với khu vực KTTN; giảm chi phí cho doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Tăng cường đổi mới và nâng cao hiệu quả, tính độc lập của hệ thống toà án nhân dân các cấp, nhất là xét xử và thi hành án dân sự, kinh tế. Có chế tài đủ mạnh để khắc phục tình trạng thực thi chưa nghiêm chủ trương của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước về KTTN. Xoá bỏ mọi biểu hiện lợi ích nhóm trong xây dựng và thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách đối với KTTN./.
Bài 2: Niềm tin lớn ở cuộc chơi sòng phẳng
Nghị quyết 10-NQ/TW về “phát triển kinh tế tư nhân” đóng vai trò quan trọng trong việc tạo dựng niềm tin của các doanh nghiệp tư nhân. Với niềm tin vào tương lai, các doanh nghiệp sẽ có những cam kết cao hơn về nguồn lực, đầu tư lâu dài để cải thiện năng suất lao động và đóng góp nhiều hơn cho tăng trưởng.
Tạo dựng niềm tin lớn
Theo ông Lê Khắc Hiệp, Phó Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Vingroup, Nghị quyết của Đảng về việc đưa kinh tế tư nhân (KTTN) bình đẳng với các thành phần kinh tế khác là một quyết định có tính đột phá về mặt tư tưởng của Đảng và Nhà nước. Việc đặt KTTN ngang hàng các thành phần kinh tế khác chắc chắn sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển một cách bình đẳng, tiếp cận bình đẳng hơn với các nguồn lực từ đất đai, nguồn vốn, công nghệ... “Vấn đề ở đây là làm thế nào để hiện thực hoá, làm thế nào để chính sách ấy đi vào cuộc sống và mang đến sự bình đẳng thật sự đối với các doanh nghiệp tư nhân. Với những tư tưởng đúng đắn này, một khi đã đi vào cuộc sống chắc chắn sẽ tạo được những xung lực mới cho sự phát triển của các doanh nghiệp, từ doanh nghiệp nhỏ cho đến doanh nghiệp lớn”, ông Lê Khắc Hiệp nhấn mạnh.
Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Thiên Minh, ông Trần Trọng Kiên khẳng định Nghị quyết 10-NQ/TW về “phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đóng vai trò quan trọng trong việc tạo dựng niềm tin của các doanh nghiệp tư nhân. Với niềm tin vào tương lai, các doanh nghiệp sẽ có những cam kết cao hơn về nguồn lực, đầu tư lâu dài để cải thiện năng suất lao động và đóng góp nhiều hơn cho tăng trưởng. Mặt khác, với niềm tin vào tương lai cũng như tin tưởng vào những thay đổi về thể chế, sẽ có nhiều hơn những doanh nghiệp khởi nghiệp đem lại sự sáng tạo và năng động cho nền kinh tế. Tất nhiên, theo ông Kiên, niềm tin này sẽ mất đi nếu Chính phủ không có những hành động quyết liệt, nhanh chóng để đưa Nghị quyết vào cuộc sống.
Kinh tế tư nhân đang đóng góp gần 40% cho GDP và trên 50% cho tăng trưởng. Theo ông Trần Trọng Kiên, tỉ lệ đóng góp vào GDP có thể lên đến 60% và đóng góp cho tăng trưởng có thể đến 70-80% trong 5 năm tới. Việc quan trọng nhất Nhà nước cần làm là bảo đảm Chính phủ kiến tạo, liêm chính và hành động được hiện thực hóa ở tất cả các cấp, các ngành từ chính quyền Trung ương đến các tỉnh, thành phố. Theo ông Kiên, chất lượng nguồn nhân lực trong Chính phủ là yếu tố quan trọng nhất để đạt được các mục tiêu này.
Khởi nghiệp rất cần an toàn
Doanh nghiệp vừa và nhỏ đặc biệt quan trọng tại Việt Nam và chiếm đa số trong số các doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động. Những doanh nghiệp này đóng góp phần lớn cho sự tăng trưởng nhờ sự sáng tạo, năng động và tiềm năng tăng trưởng nhanh chóng. Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân lớn của Việt Nam hiện nay đều phát triển từ nền tảng là các doanh nghiệp nhỏ hơn một thập kỷ trước.
Ông Trần Trọng Kiên cho rằng, thực tế môi trường sẽ khó khăn hơn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì hầu hết các mảng trong nền kinh tế đã có các doanh nghiệp lớn chi phối. Một số thông lệ, chính sách cũng như cách tiếp cận của Chính phủ hiện nay vẫn đang tập trung nhiều vào các doanh nghiệp lớn. Các doanh nghiệp nhỏ hiện nay chỉ có cơ hội tại các mảng hoàn toàn mới.
Tuy nhiên, nền kinh tế toàn cầu, sự hội nhập của Việt Nam, những thay đổi nhanh chóng về nền tảng công nghệ sẽ tạo ra những cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam vì họ thường nhạy bén và dễ thay đổi hơn so với các doanh nghiệp lớn. Ông Kiên nhấn mạnh rằng, việc quan trọng nhất Chính phủ cần làm là tạo ra một môi trường khởi nghiệp tốt tại Việt Nam để các doanh nghiệp mới, sáng tạo, chấp nhận rủi ro có thể hoạt động an toàn tại Việt Nam.
Là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và mới tham gia thị trường chưa đầy 1 năm, với Công ty CP Dược liệu công nghệ cao Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về kinh tế tư nhân như một luồng gió mới, hy vọng sẽ giải quyết những vấn đề khó khăn của 1 doanh nghiệp khởi nghiệp. Bà Đào Thị Khanh, Giám đốc công ty cho rằng với việc Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để KTTN phát triển nhanh, bền vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng, khối doanh nghiệp tư nhân sẽ rất sôi động, sẽ phát huy và tận dụng thế mạnh của mình ngay trong thời gian tới.
Tự tin dấn thân, mạnh dạn đầu tư
Ông Trần Trọng Kiên tin rằng nếu được đầu tư, nuôi dưỡng và tạo điều kiện đúng lúc, đúng chỗ KTTN sẽ có thể đóng góp đến 60% GDP của Việt Nam trong vài năm tới và hơn nữa trong tương lai. KTTN sẽ là đầu tàu của tăng trưởng, tạo công ăn việc làm và mang lại phồn thịnh cho xã hội.
Ông Vũ Văn Tiền, Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP An Bình cho rằng, vấn đề quan trọng nhất với doanh nghiệp tư nhân là cơ chế chính sách khuyến khích được doanh nghiệp phát triển, hiệu quả thực thi của chính sách trong thực tế. Bình đẳng về cả cơ hội và chế độ đối xử là điểm mấu chốt để KTTN tự tin dấn thân, mạnh dạn đầu tư và phát triển, đóng góp của cải vật chất cho xã hội.
Theo ông Lê Phước Vũ – Chủ tịch HĐQT Công ty CP Tập đoàn Hoa Sen, chính sự đồng lòng và quyết tâm của Đảng và Chính phủ trong việc định hướng đường lối, chính sách, hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh, là động lực quan trọng thúc đẩy sự nỗ lực và cống hiến của đội ngũ doanh nhân, của cộng đồng doanh nghiệp. Ông Lê Phước Vũ cũng mong muốn những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong quá trình thực thi, cần phải có cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ, xử lý nghiêm minh. Có như vậy, những đổi mới, cải cách mới thực sự có hiệu quả và ý nghĩa trên thực tế.
Sự thay đổi trong tư duy của lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong thời điểm kinh tế đất nước đứng trước nhiều thách thức như hiện nay chính là chỗ dựa quan trọng về tinh thần và định hướng phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và của các doanh nghiệp tư nhân nói riêng.
Các doanh nghiệp tư nhân đều có chung niềm vui khi KTTN đã được nhìn nhận đúng với vai trò nội lực bền vững của nền kinh tế. Đây là thời điểm để các doanh nhân được thỏa sức sáng tạo, phát triển, hội nhập với các doanh nghiệp trong khu vực và thế giới./.
Bài 3: Tháo dỡ các rào cản – Vận hội của kinh tế tư nhân
Tháo dỡ các rào cản, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân (KTTN) phát triển nhanh, hội nhập thành công trở thành đòi hỏi bức xúc và cần được tiến hành một cách bài bản và kiên quyết.
GS.TSKH Lê Du Phong - nguyên Quyền Hiệu trưởng ĐH Kinh tế Quốc dân là người có nhiều trăn trở tâm huyết, với mong muốn không còn các rào cản về thể chế, để khu vực KTTN có thể “cất cánh”, góp phần đưa Việt Nam sớm trở thành nước công nghiệp hiện đại.
Thúc đẩy từ chính sách
Để thực thi được mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất coi trọng xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc, sau 30 năm Đổi mới, chủ trương xây dựng thể chế kinh tế thị trường của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhất quán và ngày càng đổi mới, phù hợp với quá trình phát triển của nền kinh tế nước nhà, với xu thế phát triển của thời đại và hội nhập quốc tế.
GS.TSKH Lê Du Phong phân tích: “Xây dựng hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý phù hợp cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành thuận lợi và hiệu quả luôn là vấn đề hàng đầu được Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra trong các kỳ Đại hội khi bàn về xây dựng thể chế kinh tế”.
Nhờ sự quan tâm đó của Đảng, từ năm 1990 đến năm 2015, tức là trong vòng 25 năm, Việt Nam đã xây dựng và ban hành 190 Bộ luật và Luật, 85 Pháp lệnh (kể cả sửa đổi, bổ sung) có liên quan đến việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh đã góp phần tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động của các tác nhân tham gia trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau 30 năm Đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã xác định ngày càng rõ hơn vị trí, vai trò của các tác nhân tham gia hoạt động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo GS.TSKH Lê Du Phong, nền kinh tế thị trường ra đời dựa trên nền tảng của chế độ đa sở hữu về tư liệu sản xuất, trong đó sở hữu tư nhân là quan trọng nhất. Và nền kinh tế thị trường chỉ có thể phát triển mạnh mẽ, đúng quy luật khi tất cả các tác nhân đều được bình đẳng trong tham gia hoạt động trên thị trường.
Có thể nói, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước nhận ra hai vấn đề này và đã có chủ trương giải quyết phù hợp với sự thay đổi của nhận thức cũng như thực tiễn. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) đến Đại hội lần thứ XII (1/2016), nhận thức của Đảng về thành phần kinh tế và vai trò, vị trí của từng thành phần trong nền kinh tế quốc dân cũng đã có sự thanh đổi phù hợp hơn với thực tế của đất nước và với xu thế phát triển của thời đại.
Về thành phần kinh tế, “kinh tế cá thể, tiểu chủ” và “kinh tế tư bản tư nhân” được gộp lại thành “KTTN”. Như vậy, trong nền kinh tế chỉ còn 5 thành phần kinh tế là: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, KTTN, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Về vai trò, vị trí của các thành phần kinh tế, từ Đại hội XII, quan điểm “Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” đã được loại bỏ. Trái lại, vai trò, vị trí của KTTN ngày càng được đề cao.
Đại hội X cho rằng “KTTN có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Đại hội XI khẳng định “KTTN trở thành một trong những động lực của nền kinh tế”. Đại hội XII khẳng định mạnh mẽ hơn “KTTN là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế”.
“Việc xác định đúng vai trò, vị trí của các tác nhân tham gia hoạt động trong nền kinh tế đã tạo ra hào khí mạnh mẽ làm kinh tế trong mọi tầng lớp dân cư, giúp Đảng và Nhà nước khai thác được tối đa các nguồn lực để phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước”, GS Lê Du Phong khẳng định.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện và phù hợp đã giúp cho kinh tế-xã hội phát triển nhanh, liên tục và đạt được những thành tựu quan trọng suốt 30 năm Đổi mới vừa qua.
Nền kinh tế thị trường càng đi vào hiện đại thì KTTN càng có vai trò quyết định đối với phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Vì thế, GS Lê Du Phong cho rằng nên tập trung thực hiện quyết liệt việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, nhất là những lĩnh vực khu vực tư nhân làm tốt, làm có hiệu quả. Mặt khác, cũng đã đến lúc coi KTTN và nền tảng, là động lực chủ yếu của nền kinh tế.
Sự xuất hiện của thành phần KTTN cũng đã mang lại sự thay đổi đáng kể cho bộ mặt kinh tế của đất nước. Và cũng có thể nói KTTN là động lực giúp Việt Nam vượt qua được giai đoạn khó khăn vừa qua, khi nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn đang phải vật lộn với khó khăn tài chính và sự chuyển đổi sau quá trình cổ phần hóa. Những năm sắp tới, GS. Phong cho rằng cần phải tập trung cho việc phát triển KTTN, phải nhanh chóng làm cho KTTN của nước ta có các tập đoàn kinh tế tầm cỡ quốc tế.
Để rào cản không còn là những trở lực
GS.TSKH Lê Du Phong cho biết thuật ngữ “Rào cản về thể chế kinh tế” mới xuất hiện ở nước ta mấy năm gần đây, khi trong thực tiễn không ít các quy định của các Bộ luật và Luật, các cơ chế và chính sách được đưa ra thực thi trong nền kinh tế, cũng như cách hành xử của các cơ quan và công chức thuộc bộ máy Nhà nước đã đem lại không ít khó khăn, trở ngại đối với các hoạt động sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp và người dân. Hậu quả là làm cho tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế có xu hướng chậm lại. Xác định rõ các rào cản về thể chế kinh tế và tìm cách tháo dỡ nó đã trở thành đòi hỏi bức xúc.
GS. Lê Du Phong cho rằng “Rào cản về thể chế kinh tế” có thể hiểu là “Những trở lực của “Luật chơi” và cách tổ chức thực thi “luật chơi” (kể cả chính thức và phi chính thức) đối với hoạt động của các tác nhân tham gia trong nền kinh tế ở một thời kỳ nhất định”. Theo GS. Phong, đã là “luật chơi” cho dù chính thức hay phi chính thức, cũng chỉ phù hợp với tiến trình phát triển chung của thời đại và của đất nước trong một thời gian nhất định. Do đó, hoàn thiện và đổi mới “luật chơi” cho phù hợp với điều kiện mới là vấn đề phát được đặt ra thường xuyên đối với từng quốc gia. Bởi lẽ, nếu không “luật chơi” đó sẽ trở thành rào cản đối với sự phát triển của nền kinh tế.
“Luật chơi” chính thức là bộ phận quan trọng nhất của thể chế kinh tế, nó bao gồm: Hiến pháp, các Bộ luật và Luật, các văn bản dưới luật và cơ chế thực thi các văn bản đó được xác định cho các cơ quan quản lý Nhà nước các cấp. “Luật chơi” phi chính thức là các quy tắc bất thành văn, quy phạm, những điều cấm kỵ mà các nhóm người trong xã hội tham gia hoạt động trong nền kinh tế tự nguyện tuân thủ.
Ông Lê Du Phong cho rằng kinh tế Việt Nam có thể sẽ tụt lại so với nhiều nước trong khu vực và KTTN cũng khó phát triển mạnh được nếu không có sự thay đổi về môi trường kinh doanh một cách quyết liệt hơn.
Về vấn đề được các chuyên gia kinh tế nhắc đến nhiều là tương quan thiếu cân bằng giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp Nhà nước. Vấn đề này đang được tích cực giải quyết bằng quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng hơn giữa doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân. Quá trình cổ phần hóa đã giúp thu hẹp số lượng doanh nghiệp Nhà nước. Tuy vậy, theo GS. Phong, số doanh nghiệp Nhà nước còn lại dù ít nhưng phần lớn là những doanh nghiệp có quy mô lớn và đang chiếm thị phần lớn trên nhiều lĩnh vực. Để có thể giúp thành phần KTTN tham gia sâu, rộng hơn vào thị trường, tiến trình cổ phần hóa cần phải đẩy nhanh hơn nữa.
Một biện pháp hỗ trợ DN tư nhân nữa có thể sớm được đưa vào thực hiện, đó là Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ có hiệu lực từ 1/1/2018. Do có 90% số doanh nghiệp là doanh nghiệp vừa và nhỏ và phần lớn số đó là doanh nghiệp tư nhân, Luật này sẽ giúp Việt Nam có một mô hình, chính sách và nguồn lực hợp lý để tạo thuận lợi cho DN tư nhân phát triển.
Bên cạnh đó, GS. Lê Du Phong cho rằng cơ quan Nhà nước, chính quyền các ngành, các cấp cần có chương trình hành động cụ thể, được xây dựng trên cơ sở tham vấn định kỳ với doanh nghiệp, được công bố rõ, được kiểm điểm hằng năm, thành chỗ tin cậy cho kinh doanh, là đầu mối quy hoạch phát triển, dẫn dắt và phục vụ đắc lực cho doanh nghiệp trong hội nhập.
Vẫn còn nhiều rào cản gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân. Mỗi ngành nghề đều có những vấn đề riêng. Song tựu chung đều liên quan tới những vướng mắc do hệ thống thủ tục hành chính phức tạp và những trói buộc trong quá trình tiếp cận nguồn tài chính.
Theo GS. Lê Du Phong, cơ quan công quyền về đăng ký kinh doanh, thủ tục hải quan, thuế, cấp đất cho dự án kinh doanh, quản lý và cấp vốn đầu tư và hỗ trợ phát triển cần duy trì cơ chế đối thoại cùng các thiết chế đại diện cho doanh nghiệp Việt Nam. Thông qua cơ chế đó, định kỳ đánh giá chất lượng dịch vụ công các ngành trên, với tiêu chí đánh giá minh bạch thuận tiện, tiến hành đánh giá về từng loại dịch vụ công theo địa phương theo ngành và công bố và công khai kết quả tiến bộ có được.
Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân được ban hành Hội nghị Trung ương 5 khóa 12 là một bước tiến mới, tạo động lực thúc đẩy phát triển cho khu vực kinh tế tư nhân và toàn bộ nền kinh tế. Thực hiện được các nội dung của Nghị quyết sẽ có sức khuyến khích phát triển rất tốt cho lực lượng kinh tế tư nhân. Nghị quyết là sự khơi nguồn cho sự đổi mới, là cơ sở để các lực lượng kinh tế tư nhân trước đây bị kìm hãm hoặc bị hạn chế được bung ra. Tuy nhiên, GS. Lê Du Phong cho rằng vai trò chủ động của doanh nghiệp vẫn có ý nghĩa quyết định. Với kỳ vọng về một thị trường trong nước tiềm năng và cơ hội hội nhập rất lớn, các doanh nghiệp Việt Nam cần năng động, sáng tạo và quyết liệt hơn trong mỗi bước đi của mình./.
Bài 4: “Chủ trương một, biện pháp mười”
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XII) về kinh tế tư nhân thực sự tạo niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp, cho người dân, nhưng phải hành động như thế nào để Nghị quyết đi vào cuộc sống nhanh nhất.
PGS. TS Nguyễn Hồng Sơn, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, Hiệu trưởng Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã có cuộc trao đổi với phóng viên Báo điện tử Chính phủ về những giải pháp nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 5 về kinh tế tư nhân (KTTN).
Ba giải pháp phát triển khu vực kinh tế tư nhân
Mặc dù có vai trò quan trọng trong nền kinh tế và có số lượng đông, tuy nhiên khu vực KTTN chưa thực sự trở thành động lực trong nền kinh tế. Theo ông, đâu là những nguyên nhân chính?
PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn: Thứ nhất, KTTN có số lượng rất đông, nhưng quy mô nhỏ, có tới 70% số doanh nghiệp tư nhân thuộc nhóm siêu nhỏ. Thứ hai, trong số 40% GDP do khu vực KTTN tạo ra, hộ kinh doanh đã chiếm 30%. Thứ ba, hiệu quả kinh doanh, năng suất lao động khu vực KTTN cũng không cao. Bên cạnh đó, tính kết nối của khu vực KTTN với khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực KTTN với chuỗi giá trị toàn cầu cũng thấp.
Trong khi đó, khu vực KTTN lại đang phải đối mặt với rất nhiều rào cản: Rào cản chưa có sự thống nhất cao về nhận thức, rào cản về môi trường kinh doanh, còn có sự bất bình đẳng giữa khu vực KTTN với khu vực kinh tế Nhà nước cũng như với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài…
Thêm một lý do khiến cho khu vực KTTN chưa thể lớn mạnh, đó là nhiều doanh nghiệp thiếu kiến thức, thiếu vốn và chưa liên kết được sức mạnh với nhau.
Theo ông, cần những giải pháp lớn nào để các doanh nghiệp tư nhân trở nên lớn, mạnh để kiến tạo diện mạo nền kinh tế Việt Nam trong tương lai?
PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn: Theo tôi, có 3 giải pháp lớn để khu vực KTTN thực sự trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế.
Đầu tiên là phải xóa bỏ các rào cản, đặc biệt là các rào cản về môi trường kinh doanh như khả năng tiếp cận thị trường, khả năng tiếp cận nguồn lực, khả năng tiếp cận thông tin và các chi phí như chí phí không chính thức, chi phí kinh doanh, chi phí tuân thủ…
Để tạo hứng khởi cho khu vực KTTN và thúc đẩy khu vực này phát triển, phải cho họ thấy kết quả thực sự của việc xóa bỏ rào cản, trong đó đặc biệt là giảm chi phí. Nếu trong thời gian sắp tới, các doanh nghiệp tư nhân thấy rằng chi phí của họ giảm xuống thì đó chính là tín hiệu cho thấy Nghị quyết bắt đầu được đi vào thực tiễn. Hoặc những chỉ tiêu về cải cách thủ tục hành chính, số lượng giấy phép con giảm xuống… cũng đều là những tín hiệu tốt cho KTTN phát triển.
Tuy nhiên, việc xóa bỏ rào cản vẫn chưa đủ, bởi khu vực KTTN là thị trường. Do vậy, phải tạo dựng các điều kiện để thị trường có thể vận hành tốt,đặc biệt là thị trường các nhân tố sản xuất như thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường đất đai, thị trường công nghệ… Một khi nền kinh tế vận hành theo đúng cơ chế thị trường, KTTN sẽ phát triển tốt. Bản chất của KTTN là gắn chặt với cơ chế thị trường.
Để có sự đột phá thì nhóm giải pháp thứ 3 rất quan trọng. Phải có cơ chế chính sách cho từng nhóm đối tượng KTTN. Ví dụ, với nhóm đối tượng doanh nghiệp lớn phải định hướng theo hướng quốc tế hóa, gắn nhiều với đổi mới sáng tạo, gắn nhiều hơn với xuất khẩu và các DN lớn gắn nhiều hơn với xu hướng của cuộc cách mạng 4.0.Đối với nhóm đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa, phải có cơ chế chính sách để cho các doanh nghiệp này tiếp cận tốt với các nguồn lực và có thể hội nhập tốt…
Đối với nhóm đối tượng là doanh nghiệp khởi nghiệp, nhóm đối tượng doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, điều quan trọng phải tạo ra hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, tạo điều kiện thuận lợi nhất để các quỹ đầu tư sẵn sàng tài trợ cho các hoạt động đổi mới, sáng tạo và khởi nghiệp.
Với các hộ kinh doanh cá thể, đặc thù của họ là không chính thức. Do vậy, cần có cơ chế để giảm chi phí, đặc biệt là chi phí không chính thức để họ tự nguyện và phát triển để trở thành doanh nghiệp. Không nên chuyển đổi họ sang doanh nghiệp bằng các biện pháp mang tính hành chính.
Các giải pháp được nêu trên, nếu thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực KTTN phát triển mạnh mẽ hơn, đột phá hơn trong thời gian tới.
Để Nghị quyết không nằm trên giấy
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nhấn mạnh tại Hội nghị toàn quốc học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng: “Điều quan trọng lúc này là đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, là tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết có hiệu quả. Làm sao để khắc phục được tình trạng Nghị quyết thì đúng, thì hay, nhưng chậm đi vào cuộc sống”. Vậy theo ông, làm thế nào để Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII“thấm” vào đời sống xã hội?
PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn: Sự thống nhất này phải bao gồm tất cả các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương và cả các doanh nghiệp. Có một thực tế là nhiều khi doanh nghiệp cũng không nắm hết được những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Họ chỉ nghe qua phương tiện thông tin đại chúng chứ không trực tiếp tìm hiểu sâu và cụ thể. Ở khía cạnh này, tôi muốn nói đến câu chuyện nghiên cứu và tư vấn cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp lớn mới có đủ nguồn lực để đặt hàng các chuyên gia nghiên cứu và tư vấn còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì chưa hẳn, họ đang còn phải lo vật lộn giải quyết các công việc thường ngày nên sẽ không có đủ nguồn lực để chi trả cho tư vấn từ bên ngoài. Chính vì vậy mà những doanh nghiệp này cần có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ.
Câu chuyện tăng cường nhận thức cũng phải rất đổi mới, không chỉ đơn thuần là tuyên truyền những nội dung cơ bản của Nghị quyết. Tuyên truyền cần phải theo từng đối tượng, mỗi đối tượng cần nắm được nghị quyết sâu hơn ở các góc độ khác nhau. Thông tin cũng nên được chia ra ở các tầng nấc. Tầng nấc phổ biến cho tất cả mọi người, tầng nấc đi vào chuyên sâu, có tầng nấc đi vào rất sâu trên cơ sở nghiên cứu và thực tiễn.
Việc thứ hai cần phải làm là có kế hoạch triển khai cụ thể, gắn với các chương trình, hành động đã và đang được triển khai. Ví dụ như cần phải gắn chặt với Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP của Chính phủ: Về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020;Nghị quyết 35/NQ-CP của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; gắn chặt cả với kế hoạch tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, gắn chặt với việc thực hiện 3 giải pháp chiến lược về thể chế, cơ sở hạ tầng, nhân lực…
Nếu tất cả các chương trình hành động và kế hoạch diễn ra một cách rời rạc thì nguồn lực sẽ bị phân tán và sẽ không tập trung được nguồn lực để có thể thực hiện nó một cách có hiệu quả được. Hiện tại, trên thực tế dường như vẫn đang tồn tại sự tách bạch trong việc thực hiện các chương trình và kế hoạch đã được đưa ra.
Thứ ba, chúng ta cần phải đưa ra các chỉ tiêu rất cụ thể cho từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương, đặc biệt là các chỉ tiêu về cải cách hành chính, về cải thiện môi trường kinh doanh, qua đó đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các bộ, ngành, địa phương theo những chỉ tiêu đó. Đây là một việc rất quan trọng. Bởi kế hoạch, chương trình thì đúng rồi, các bộ, ngành, địa phương suy đến cùng cũng sẽ phải thực hiện các kế hoạch và chương trình đó. Tuy nhiên, nếu kế hoạch, chương trình không đi kèm các chỉ tiêu cụ thể và không gắn với thực hiện các chỉ tiêu cụ thể đối với việc hoàn thành nhiệm vụ thì cũng khó có hiệu quả trên thực tế.
Thứ tư, cần triển khai các chương trình nâng cao năng lực cán bộ và cơ chế kích thích đối với cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp trung và cấp chuyên viên trong bộ máy hành chính Nhà nước bên cạnh việc siết chặt lại các kỷ cương, cũng như tăng cường tính chuyên nghiệp. Điểm nghẽn của chúng ta hiện nay nhiều khi ở cán bộ cấp trung và chuyên viên. Nếu chỉ nghiêng về sức ép hành chính và tăng cường kỷ luật sẽ dẫn đến nguy cơ bộ máy bị “đơ”, không hoạt động được.
Thứ năm, cần phải triển khai một cách có hiệu quả các chương trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong đó có những chương trình về nâng cao năng lực, cung cấp thông tin, kết nối doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác cũng như các doanh nghiệp nhỏ có thể kết nối với doanh nghiệp lớn để được hỗ trợ trong tiến trình hội nhập quốc tế. Kinh nghiệm trong nước và quốc tế cho thấy, để thực hiện hiệu quả giải pháp này cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, trường đại học, viện nghiên cứu và cácdoanh nghiệp./.
Bài 5: Biến đột phá thành hành động
Để phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực của quan trọng của nền kinh tế nước ta bên cạnh sự mong mỏi, phải có cách làm hay cùng với tính lý trí cao cho một tương lai dài hạn của đất nước.
PGS.TS. Bùi Tất Thắng, Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã khẳng định như vậy khi trao đổi với Báo điện tử Chính phủ về mong muốn cho kinh tế tư nhân (KTTN) phát triển của Đảng ta.
Xin ông đánh giá khái quát về vị trí, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân hiện nay?
PGS.TS. Bùi Tất Thắng: Trong thể chế kinh tế thị trường mô hình chuẩn theo thông lệ quốc tế tối ưu của một nền kinh tế thị trường, người ta không đặt vấn đề là phải có một đường lối phát triển KTTN như ở ta. Việc chúng ta đề ra đường lối này xuất phát từ đặc thù của một quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường cho đến nay chưa hoàn tất. Bởi vậy đối với các nền kinh tế thị trường, người ta mặc nhiên thừa nhận ngay từ trong Hiến pháp, từ trong các quy định pháp lý của nhà nước, chế độ sở hữu tư nhân được pháp luật bảo hộ cho quyền sở hữu tư nhân một cách hợp pháp và minh bạch.
Trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, chúng ta đã có thời kỳ chủ trương xóa bỏ KTTN để xây dựng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Nay chúng ta thừa nhận cơ chế thị trường thì chúng ta phải khôi phục lại cơ sở kinh tế của nền kinh tế đó, tức là thừa nhận sự tồn tại lâu dài và hợp pháp, được Nhà nước bảo hộ của KTTN.
Tuy nhiên, do những hoàn cảnh lịch sử mà sự phát triển của KTTN ở nước ta bị gián đoạn. Có thể nói hiện nay còn nhỏ, yếu so với mặt bằng cạnh tranh chung của khu vực và thế giới. Vì vậy, Nhà nước đã chủ trương khuyến khích, hỗ trợ cho khu vực này. Đây được coi là một quyết sách đúng đắn và thể hiện sự kiên trì, nhất quán của Đảng và Nhà nước kể từ khi đổi mới đến nay, quyết tâm hoàn thành sứ mệnh đưa nền kinh tế của ta trở thành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đến Đại hội XII khẳng định rằng tính thị trường phải đầy đủ, hiện đại và hội nhập quốc tế, ở trình độ chung của thế giới và hội nhập được vào thế giới. Muốn vậy, cơ sở kinh tế của nó, trong đó một trong những cơ sở quan trọng nhất là thừa nhận KTTN. Đại hội XII đã khẳng định mạnh mẽ rằng KTTN là "động lực quan trọng", so với trước đây chỉ nói là một trong những động lực của nền kinh tế. Có thể coi như một bước tiến của nhận thức xét từ logic kế hoạch hóa tập trung chuyển sang kinh tế thị trường.
Nhân đây tôi cũng muốn nói thêm một ý, trong học thuyết kinh tế của Marx, khi nền kinh tế thị trường phát triển đến một giai đoạn cao, khi hình thức của sở hữu tư nhân không chỉ là những sở hữu của chủ doanh nghiệp, hay một gia đình, một trang trại, một công ty, mà nó đạt đến trình độ, chế độ sở hữu cổ phần. Lúc đó sở hữu tư nhân được coi là sở hữu xã hội chứ không phải đối lập với chủ nghĩa xã hội. Đây là điều cần chú ý về mặt tư duy lý luận.
Tôi nghĩ rằng khi nghiên cứu về kinh tế chính trị học Marxit thì phải hiểu thật kỹ điều này. Hình thức sở hữu tư nhân thông qua hình thức cổ phần, tính chất xã hội của sản xuất được phổ cập và lúc đó người ta không coi sở hữu tư nhân là một mặt đối lập của sở hữu xã hội mà hình thức sở hữu tư nhân ở dạng cổ phần là một hình thức của sở hữu xã hội. Bởi vậy, ở những nước phát triển, những doanh nhân thành đạt coi việc phát triển cơ sở kinh tế của họ không chỉ là phát triển kinh tế cho họ và gia đình họ mà là cho xã hội.
Ở nước ta hiện nay, mặc dù KTTN vẫn còn nhỏ nhưng xét về mặt ổn định kinh tế và xã hội thì có những ý nghĩa rất quan trọng. Từ khi chúng ta đổi mới, thôi chế độ hợp tác xã kiểu cũ, cải cách doanh nghiệp nhà nước, bộ phận KTTN hiện nay chiếm vào khoảng 43% GDP, 38% vốn và chiếm 86% lao động. Như vậy, số người sống nhờ vào lao động và gia đình họ sống nhờ vào khu vực KTTN chiếm phần lớn trong xã hội. Giả sử nếu không có sự phát triển tốt và bền vững thì sẽ ảnh hưởng đến sinh kế và đời sống của đông đảo cư dân Việt Nam hiện nay. Càng đối với vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa thì càng ảnh hưởng quan trọng. Thành tựu chung của 30 năm đổi mới, trong đó có tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo có một phần rất lớn nhờ cậy vào khu vực KTTN này. Thực tế giờ chúng ta có gọi là động lực quan trọng hay không quan trọng nhưng hiện thực là với rất nhiều người họ vẫn coi đó là sự sống còn, cuộc sống thiết thân của người ta. Ở đây giữa nhận thức và thực tế cũng phải có sự điều chỉnh. Nhận thức phải theo thực tế chứ không phải thực tế theo nhận thức.
Chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm gì về sự phát triển của khu vực KTTN cho giai đoạn phát triển tiếp theo?
PGS.TS. Bùi Tất Thắng: Trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII Đảng ta ra 3 Nghị quyết. Ba Nghị quyết này đều xoay quanh trục chung, hợp thành thể chế chung của kinh tế Việt Nam. Với Nghị quyết về kinh tế tư nhân, tôi rất tâm đắc với những tư tưởng mới, trong đó khẳng định vai trò quan trọng, động lực quan trọng của KTTN đã được khẳng định trong Đại hội XII và được cụ thể hóa khá nhiều tư tưởng, quan điểm thành hướng chính sách rất cụ thể, cơ quan quản lý nhà nước phải tiếp tục nghiên cứu để triển khai để phục vụ cho sự phát triển của KTTN trong giai đoạn sắp tới.
Trong những việc phải làm, có hai việc. Việc thứ nhất ở tầm kinh tế vĩ mô, định hướng chung của 3 Nghị quyết này là đều phải tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch và thuận lợi cho sự phát triển của bất kể khu vực kinh tế nào, trong đó có KTTN. Tại sao cứ hay nói đến chuyện phải phục vụ KTTN? Bởi vì trong quan niệm chung của xã hội và cộng đồng doanh nhân, người ta vẫn có mặc cảm rằng trong sự đối xử không bình đẳng thì phần thiệt thòi thuộc về KTTN. Thực tế cũng có lý, việc cải cách thủ tục hành chính, những luật pháp có liên quan và hỗ trợ KTTN, đây là giai đoạn cần quan tâm nhiều hơn bởi vì nền kinh tế thị trường của ta chưa thuần thục, chưa nhuần nhuyễn và bản thân bộ máy vận hành, cả cơ quan tham mưu lẫn cơ quan quản lý trong chừng mực nào đó vẫn chưa phải là những người công chức viên chức của nền kinh tế thị trường mang tính chuyên nghiệp. Chính vì vậy những yêu cầu về cải cách hành chính vẫn tiếp tục được đặt ra.
Trước nay, trên những văn bản pháp lý của Nhà nước đề ra những chính sách rất cụ thể để hỗ trợ những khu vực KTTN nói riêng và khu vực doanh nghiệp nói chung. Ví dụ điều kiện gì thì được hưởng thuế thấp, được tiếp cận đất đai dễ, được vay vốn ngân hàng thuận lợi hơn, giúp xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại, khoa học-công nghệ… Ngành nào cũng thực sự có ý thức để thiết kế những chính sách góp phần phục vụ vào kinh tế nói chung và KTTN nói riêng. Nhưng về phía những người hưởng thụ, cụ thể ở đây là những doanh nhân, họ vẫn chưa cảm thấy được đáp ứng, hoặc chí ít cũng chưa được như kỳ vọng. Nếu như thủ tục phiền hà quá, chi phí tốn kém quá, những điều kiện để được những ưu đãi kia khó khăn quá, phức tạp quá… Như hiện tại, theo tôi cần phải có bộ phận nào đó nghiên cứu rất rạch ròi, kê ra từng vấn đề để có thể giải quyết được những khó khăn ấy cho doanh nghiệp.
Sự phát triển của KTTN phần lớn không đòi hỏi ưu tiên đặc thù nhiều nhưng họ đòi hỏi một môi trường thực sự bình đẳng, minh bạch cho các hoạt động kinh tế. Dưới góc nhìn của chuyên gia, ông đánh giá thế nào về các giải pháp như là tính đồng bộ của Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII về kinh tế tư nhân?
PGS.TS. Bùi Tất Thắng: Theo quan điểm của tôi, hiện nay, chỉ còn ít vướng mắc thuộc về quan điểm chính sách vĩ mô lớn, chỉ còn những thao tác cụ thể của cán bộ thừa hành và cách vận hành của đời sống hiện thực mang tính vi mô. Ví dụ như nói cần phải hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, giờ cả xã hội đều bàn về vấn đề này nhưng vẫn thấy khó. Chúng ta vẫn thiếu những đội ngũ hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp chuyên nghiệp. Như ở Mỹ, nếu một người muốn mở cửa hàng bán đồ lưu niệm ở góc phố này chỉ cần đăng ký qua mạng và trong vòng một vài ngày sẽ được cấp phép khi đã đủ điều kiện. Ngay lập tức Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ của Mỹ ở địa bàn đó sẽ cử một chuyên gia về lĩnh vực kinh doanh đó tới cửa hàng lưu niệm mới mở để hỏi han và hướng dẫn cho doanh nghiệp mới khởi nghiệp mọi cách thức để triển khai tốt nhất. Như vậy, mọi người đều dễ dàng bước vào thị trường kinh doanh một cách tự nhiên. Mọi người đều chia sẻ lợi ích đó.
Đôi khi chúng ta nhìn nhận KTTN chỉ như một sự cạnh tranh khốc liệt “cá lớn nuốt cá bé” trong bối cảnh hiện nay cũng đã có sự thay đổi. Có rất nhiều điều chúng ta có thể học hỏi được ở thế giới như tính hiện đại, tính đầy đủ và tính hội nhập quốc tế của thị trường.
Nếu chúng ta khai thác tốt những bài học kinh nghiệm về mặt hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đôi khi không phải chỉ mỗi chuyện vốn, công nghệ, hay thị trường, nó là tập quán hay môi trường kinh doanh của xã hội. Lâu nay chúng ta đặt vấn đề những cơ quan tham mưu, làm chính sách phải tốt, họ cũng đã làm và đã có nhiều việc cũng khá tốt. Nhưng tiếp đó là phải vận hành xuống đến những cơ sở mang tính vi mô như thế. Hiện nay chúng ta còn trống. Có lẽ, giai đoạn sắp tới, những hỗ trợ phải đi vào hành động cụ thể và thiết thực.
Tính đúng đắn, hợp lý hay khuyến khích được đo bằng chính ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp. Không tạo cơ sở cho sự hành động thì không có cơ sở thực chất để kiến tạo.
Việt Nam vẫn đang có rất ít doanh nghiệp tư nhân lớn, việc định hướng phát triển một số tập đoàn KTTN lớn cần đặt ra như thế nào, thưa ông?
PGS.TS. Bùi Tất Thắng: Nhìn ra thế giới bên ngoài, nền kinh tế thị trường nào cũng có sự thành đạt tạo nên từ những công ty tư nhân có tên tuổi. Ví dụ nói đến Nhật Bản người ta nhắc đến Honda, Mitshubishi, nhắc đến Hàn Quốc là Samsung, Hyundai… Những thương hiệu đó mặc nhiên trở thành niềm tự hào quốc gia. Sau 30 năm đổi mới sang kinh tế thị trường, chúng ta vẫn chưa có những cái tên để làm người Việt Nam tự hào, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Chúng ta hiện nay có một số công ty lớn, trong dân gian vẫn gọi họ là những 'đại gia' với hàm ý chưa phải là tự hào, người dân chưa cảm thấy họ là biểu tượng của nền kinh tế quốc gia. Điều này cần phải khắc phục.
Trong Đại hội XII, Đảng đã yêu cầu phải phát triển doanh nghiệp Việt Nam, muốn ngầm ý phải tạo được lực lượng doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam đối chọi với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngày xưa chúng ta nói đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam là phát triển những tập đoàn kinh tế nhà nước mạnh, nhưng giờ chúng ta nói doanh nghiệp Việt Nam thực chất là kinh tế tư nhân.
Rất mong có những doanh nghiệp tư nhân lớn phát triển. Phát triển kinh tế tư nhân thì cách làm rất quan trọng. Trong KTTN, quan hệ kinh tế chuẩn mực là đấu thầu và hợp đồng. Thông qua đấu thầu mới chọn được doanh nghiệp có điều kiện tốt nhất. Còn nếu chúng ta phát triển KTTN theo cách chỉ định người thắng cuộc thì nguy cơ, rủi ro tham nhũng lại tăng lên. Bởi vậy, theo tôi, không nên quá nôn nóng, vội vàng chọn người thắng trước khi cạnh tranh phát triển. Hãy làm cho môi trường cạnh tranh thật sự lành mạnh, những người xứng đáng thắng thông qua đấu thầu – có tư duy phát triển, có chiến lược dài hạn, năng lực công nghệ, vốn, quản lý nhân sự… Nhà nước nên có hỗ trợ để những doanh nghiệp, doanh nhân đó phát triển mang tính biểu tượng quốc gia. Điều này chỉ ra đời được trong một cơ chế thật sự lành mạnh. Nếu trong cơ chế mà còn tình trạng tham nhũng, tình trạng nhiễu loạn, tình trạng lợi ích nhóm… sẽ khiến chúng ta rơi vào nguy cơ chọn nhầm người thắng. Lúc đó giá phải trả sẽ rất lớn.
Chính vì vậy, để phát triển KTTN trở thành một động lực của quan trọng của nền kinh tế nước ta bên cạnh sự mong mỏi, phải có cách làm hay cùng với tính lý trí cao cho một tương lai dài hạn của đất nước./.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Cơ hội tiếp cận nguồn dầu thô mới cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất  (17/09/2019)
Bài học sâu sắc về công tác cán bộ qua vụ Trịnh Xuân Thanh  (17/09/2019)
Trưởng ban Thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đoàn là tấm gương tiêu biểu của tầng lớp nhân sĩ, trí thức Việt Nam luôn vì nước, vì dân, xả thân vì nghĩa lớn  (16/09/2019)
Phòng chống nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong Đảng - vấn đề sống còn của Đảng và chế độ ta  (16/09/2019)
Nhà máy lọc dầu Dung Quất: Giải pháp kỹ thuật mới làm lợi 1 tỷ đồng/năm  (16/09/2019)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Kinh tế di sản trong bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay
- Giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy giá trị kinh tế di sản từ góc nhìn quản trị vùng và địa phương
-
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay