“Liệu pháp kích cầu” về bản chất là việc chủ động sử dụng “Bàn tay nhà nước” tác động tích cực tới tổng cung và tổng cầu xã hội một cách thống nhất, có tổ chức và có chủ đích, theo hướng khuyến khích đầu tư và mở rộng quy mô tiêu dùng, kích hoạt và tăng động lực phát triển kinh tế trong bối cảnh có sự suy giảm lòng tin và các động lực phát triển kinh tế gắn với các khó khăn về nguồn vốn và thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp, nhất là khu vực kinh tế tư nhân...

Đặc trưng của những công cụ được dùng chủ yếu trong liệu pháp kích cầu ở các nền kinh tế thị trường thường là:

- Áp dụng chính sách nới lỏng ở các mức độ khác nhau cả chính sách tài chính, lẫn tiền tệ và tín dụng, như miễn, giảm, hoàn thuế, khoanh nợ, giãn nợ, nới lỏng các điều kiện tín dụng, giảm lãi suất và tăng quy mô dư nợ tín dụng ngân hàng cho các hoạt động kinh doanh và tiêu dùng, tăng lương, tăng phát hành tiền và trái phiếu nợ chính phủ, gia tăng quy mô và phạm vi các hoạt động chi tiêu công và đầu tư nhà nước …;

- Gia tăng mức độ tự do hoá trong kinh doanh, giảm bớt và thu hẹp lĩnh vực độc quyền nhà nước, mở rộng tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài và tư nhân trong các doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước; khuyến khích các hoạt động mua lại, sáp nhập và tái cấu trúc cơ cấu kinh tế vĩ mô và vi mô…;

- Giảm bớt rào cản thủ tục hành chính các loại cho hoạt động kinh doanh và tiêu dùng; khuyến khích giảm giá, đồng thời có thể có sự gia tăng các hình thức bảo bộ phi thuế quan đi đôi với kiểm soát an toàn vĩ mô đối với thị trường nội địa…

Vũ khí chủ lực trong “liệu pháp kích cầu” thường là các “gói kích cầu” tức quỹ tài chính của chính phủ trực tiếp chi cho các hoạt động kích cầu đầu tư và tiêu dùng, chống suy giảm, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội theo kế hoạch được các cấp có thẩm quyền định đoạt.

Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu năm 2009, sự xuất hiện các “gói kích cầu” này là phổ biến ở cả các quốc gia, dù phát triển hay đang phát triển, và cả các tổ chức khu vực và quốc tế như IMF, EU, ASEAN, với quy mô ngày càng tăng, từ hàng ngàn tỉ USD như ở Mỹ, hàng trăm tỉ USD như ở Nhật, Trung Quốc, Nga và các nước thành viên EU…

Ở Việt Nam, “gói kích cầu thứ nhất” trị giá 1 tỉ USD đã được Chính phủ quyết đoán thông qua và sớm được giải ngân nhanh chóng để hỗ trợ 4% lãi suất vay ngân hàng thương mại cho các khoản vay ngắn hạn dưới 1 năm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có vốn điều lệ dưới 10 tỉ đồng, sử dụng không quá 300 công nhân, không nợ đọng thuế và nợ tín dụng quá hạn…

Tiếp đó, “gói kích cầu thứ hai” cũng đã được công bố với quy mô lớn hơn (tổng cộng 2 gói trị giá 8 tỉ USD), cho vay dài hạn hơn (tới 2 năm), điều kiện nới lỏng hơn (doanh nghiệp và cả HTX có vốn dưới 20 tỉ đồng, sử dụng dưới 500 lao đông, có thể nợ thuế và tín dụng quá hạn nhưng có dự án phù hợp) và lĩnh vực cho vay cũng mở rộng hơn…Tuy còn cần thời gian, cũng như các số liệu cần thiết để tổng kết thực tế, phân tích khách quan hiệu quả của các gói kích cầu này, song trước mắt có thể cảm nhận được một số tác động hai mặt của “gói kích cầu”:

1. Tác động tích cực

Thứ nhất, có thể nói, “gói kích cầu’ trước hết tạo ra hiệu ứng tâm lý tích cực, có tác dụng như một chiếc phao cứu sinh làm gia tăng tức thời lòng tin của các doanh nghiệp, các ngân hàng, nhà đầu tư trong nước và quốc tế vào trách nhiệm và quyền năng của Nhà nước trong “”giải cứu các doanh nghiệp đang gặp khó khăn, cũng như vào triển vọng thị trường và môi trường đầu tư trong nước, …

Thứ hai, trực tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận được các nguồn vốn ngân hàng với chi phí rẻ hơn, từ đó giảm bớt các chi phí kinh doanh, góp phần giảm giá, tăng cạnh tranh, tăng tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ trên thị trường.

Thứ ba, giúp các ngân hàng cải thiện hoạt động huy động và cho vay tín dụng của mình, một mặt, không phải hạ thấp lãi suất huy động dễ gây giảm và biến động mạnh nguồn tiền gửi và huy động; mặt khác, mở rộng “đầu ra” nhờ không buộc phải nâng lãi suất cho vay dễ làm thu hẹp cầu tín dụng trên thị trường. Sự ổn định và hoạt động lành mạnh của hệ thống ngân hàng trong khi gia tăng dòng tiền bơm vào thị trường là điều kiện tiên quyết cho sự ổn định kinh tế vĩ mô và gia tăng các hoạt động đầu tư xã hội.

Thứ tư, trực tiếp góp phần gia tăng các hoạt động đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo nền tảng và động lực của sự phát triển xã hội cả hiện tại, cũng như tương lai.

Thứ năm, nhiều doanh nghiệp nhận được sự hỗ trợ kịp thời của “gói kích cầu” đã có thêm cơ hội giữ vững và mở rộng sản xuất, từ đó góp phần giảm bớt áp lực thất nghiệp và đảm bảo ổn định xã hội.

Thứ sáu, những hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại quốc gia được tài trợ từ “gói kích cầu” nếu thực hiện có hiệu quả cũng sẽ có tác động tích cực đến tăng dòng vốn chảy vào và mở rộng thị trường đầu ra cho doanh nghiệp và nền kinh tế, từ đó trực tiếp góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước..

2. Những hệ luỵ có thể có

Bên cạnh những tác động tích cực trên, nếu lạm dụng và sử dụng không hiệu quả các “gói kích cầu” sẽ có thể gây ra một số di hại sau:

Một là, khi các dự án vay đầu tư được lập ra có chất lượng thấp hoặc triển khai kém, giải ngân không đúng mục đích vay, sẽ làm thất thoát, lãng phí các nguồn vốn vay, gia tăng gánh nặng nợ nần và các hiện tượng “đầu cơ nóng” với những hệ quả đắt đỏ đi kèm cho cả Chính phủ, doanh nghiệp, ngân hàng và xã hội nói chung.

Hai là, gia tăng các hiện tượng tham nhũng do sự “bắt tay” giữa các ngân hàng với các doanh nghiệp trong việc lập các dự án vay ảo để chiếm đoạt vốn hỗ trợ từ “gói kích cầu”; do các ngân hàng gây khó khăn cho doanh nghiệp để “xử lý” phần vốn hỗ trợ trong khi thẩm định, cho vay vốn, làm tổn hại lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.

Ba là, làm tổn hại đến sức cạnh tranh của nền kinh tế do việc cho vay theo “gói kích cầu” thiên về quy mô, tức góp phần níu kéo, duy trì cơ cấu kinh tế, cũng như cơ cấu sản phẩm và thị trường kinh doanh lạc hậu, kém hiệu quả;

Bốn là, làm gia tăng hoặc kéo dài tình trạng bất bình đẳng thị trường giữa các loại hình doanh nghiêp, khu vực kinh tế và các địa phương nếu không tuân thủ tốt các nguyên tắc minh bạch và bình đẳng trong triển khai các “gói kích cầu”;

Năm là, đặc biệt, về trung hạn, tạo áp lực tái lạm phát cao trong tương lai nếu kéo dài quá lâu “liệu pháp kích cầu” và sử dụng không hiệu quả “gói kích cầu” khiến gia tăng tích tụ các mất cân đối hàng –tiền, vi phạm nghiêm trọng quy luật lưu thông tiền tệ.

Tóm lại, về tổng thể và cơ bản, hiện nay, “liệu pháp kích cầu” có nhiều tác động tích cực hơn tiêu cực, đặc biệt, các “gói kích cầu” có ý nghĩa lịch sử nhất định trong quá trình phát triển và quản lý kinh tế - xã hội đất nước trong các tình huống khẩn cấp và đặc biệt…

Tuy nhiên, việc triển khai chúng trên thực tế đòi hỏi sự cẩn trọng và tỉnh táo, tránh lạm dụng, kéo dài, cũng như cần tăng cường công tác thông tin, thanh kiểm tra và kết hợp các giải pháp đồng bộ khác nhằm phát huy các tác động tích cực, trung hoà và phòng ngừa các tác động tiêu cực, góp phần ổn định và phát triển kinh tế vĩ mô và vi mô theo hướng bền vững./.