Ðổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với lĩnh vực văn hóa, văn nghệ
TCCS - Văn hóa, văn nghệ là một lĩnh vực đặc thù đòi hỏi Đảng phải định hình phương thức lãnh đạo phù hợp ở từng giai đoạn cách mạng. Trong điều kiện mới, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa, văn nghệ có ý nghĩa bảo đảm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản sắc, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tiến trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa, văn nghệ
Trong bộn bề công việc của Nhà nước chống “giặc đói”, “giặc dốt” và giặc ngoại xâm, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 24-11-1946, tại Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất diễn ra. Trong diễn văn khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nền văn hóa mới của nước nhà lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở” và “Văn hóa liên lạc mật thiết với chính trị. Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ... Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ”(1).
Trong những năm tháng đầy gian khổ hy sinh, chống thực dân Pháp xâm lược, từ ngày 16 đến 20-7-1948, tại Việt Bắc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo tổ chức Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai. Trong thư gửi các đại biểu tham dự hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc vĩ đại của dân tộc ta, văn hóa gánh một phần rất quan trọng. Từ ngày chính quyền dân chủ thành lập đến nay, các nhà văn hóa ta đã cố gắng và đã có thành tích. Song từ nay trở đi chúng ta cần phải xây dựng một nền văn hóa kháng chiến kiến quốc của toàn dân”.
Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã khởi xướng đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế, cùng với đó là đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) xác định, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tiếp đó, quan điểm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được bổ sung, phát triển đầy đủ và sâu sắc hơn trong các văn kiện của Đảng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa VII, ngày 14-1-1993, “Về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt”, lần đầu đưa quan điểm “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”. Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII ra Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16-7-1998, về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, thể hiện tư duy lý luận văn hóa một cách toàn diện và sâu sắc trong giai đoạn cách mạng mới.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
Như vậy, sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa của đất nước ta đã có chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, trước những biến đổi nhanh chóng, đa dạng, phức tạp của đời sống trong nền kinh tế thị trường và bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, hoạt động văn hóa cũng bộc lộ không ít bất cập, hạn chế, yếu kém. Phương thức lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với văn hóa, văn nghệ chậm được đổi mới. Chúng ta chưa lường hết tính phức tạp và những tác động của mặt trái kinh tế thị trường đối với đời sống văn hóa. Tuy xác định “văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội”, nhưng trên thực tế, trong suy nghĩ và hành động, không ít tổ chức, cá nhân còn quá thiên lệch về kinh tế, coi nhẹ văn hóa. Văn hóa vô hình trung bị thu hẹp phạm vi và bị “hành chính hóa”, không còn là một phạm trù tổng thể các giá trị vật chất, tinh thần...
Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) khẳng định: “Tập trung nghiên cứu và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực của con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”(2) và “Tiếp tục đổi mới toàn diện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về văn hóa”(3).
Trong bài viết quan trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.
Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngày 24-11-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu một số hạn chế, yếu kém trên lĩnh vực văn hóa và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém đó, trong đó nổi lên là việc chậm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa, văn nghệ: “Phương thức lãnh đạo và quản lý văn hóa chậm được đổi mới, chưa thích ứng kịp thời với sự vận động và phát triển văn hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện đường lối văn hóa của Đảng còn thiếu đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả. Công tác tổ chức và công tác cán bộ trên lĩnh vực văn hóa còn nhiều bất cập. Trách nhiệm của các cấp ủy đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, của đội ngũ cán bộ, đảng viên đối với việc lãnh đạo, chỉ đạo phát triển văn hóa chưa cao...”.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa, văn nghệ trước yêu cầu mới
Thứ nhất, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa, văn nghệ bằng chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn
Tư duy lý luận và quan điểm của Đảng về văn hóa, nghệ thuật tiếp tục đổi mới, bổ sung, phát triển, nhất là quan điểm ngày càng quan tâm, coi trọng văn hóa, văn nghệ, khi xác định văn hóa phải được đặt ngang hàng và phát triển hài hòa với kinh tế, chính trị, xã hội. Đây chính là cơ sở chính trị để Đảng ta đổi mới phương thức lãnh đạo, trước hết là xây dựng các định hướng, chủ trương lớn, chiến lược quan trọng về phát triển văn hóa, văn nghệ. Các cấp ủy có nhiều cố gắng theo sát thực tiễn văn hóa, văn nghệ, nâng cao năng lực lãnh đạo và tìm tòi các phương thức chỉ đạo phù hợp, thiết thực; lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước thể chế hóa, tạo hành lang pháp lý cần thiết cho hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Nhìn lại những năm qua, Đảng ta đã dày công đầu tư trí tuệ và tâm huyết để xây dựng các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Đây chính là những “bệ đỡ” chính trị - tinh thần quan trọng cho sự phát triển của nền văn hóa, văn nghệ nước nhà, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự là sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước; cổ vũ, khích lệ, tạo niềm tin cho các văn nghệ sĩ lao động sáng tạo, đóng góp nhiều tác phẩm xuất sắc trên các lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực và thành tựu to lớn đã đạt được, cũng bộc lộ không ít hạn chế, nhất là việc thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng bằng pháp luật, chính sách, cơ chế, nguồn lực để phát triển nền văn hóa, văn nghệ nước nhà. Cho đến nay, một số chương trình, đề án thực hiện các nghị quyết lớn về văn hóa, văn nghệ(4) còn chậm được triển khai, gây những bất cập, khó khăn đối với sự phát triển của văn hóa, văn nghệ.
Một số chủ trương, chính sách đối với văn hóa, văn nghệ và văn nghệ sĩ đã lạc hậu, nhưng chậm được sửa đổi. Sự quan tâm lãnh đạo của các cấp ủy về quan điểm, chủ trương, chính sách, về đầu tư kinh phí, ngân sách cho lĩnh vực văn học, nghệ thuật chưa đúng tầm và đúng mức. Một số cấp ủy chưa coi trọng và hiểu biết chưa đầy đủ về vai trò, tính đặc thù của văn hóa, văn nghệ, còn coi nặng kinh tế, xem nhẹ văn hóa, văn nghệ, nên ban hành nghị quyết lãnh đạo chưa sát, trúng, chậm đổi mới về phương thức lãnh đạo.
Thời gian tới, cần có chủ trương, chính sách cụ thể hóa quan điểm văn hóa phải được đặt ngang hàng và phát triển hài hòa với kinh tế, chính trị, xã hội, dành sự quan tâm, nguồn lực đầu tư cho văn hóa, văn nghệ tương xứng, thực chất. Trọng tâm là chuẩn bị tổng kết 50 năm nền văn hóa, văn nghệ nước nhà sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trong đó có tổng kết về phương thức lãnh đạo của Đảng, từ đó đề ra những giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo phù hợp; thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030...
Thứ hai, Đảng lãnh đạo lĩnh vực văn hóa, văn nghệ bằng sự đổi mới mạnh mẽ công tác tư tưởng, tuyên truyền, vận động, thuyết phục
Đối với lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, sự đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bằng công tác tư tưởng, tuyên truyền, vận động, thuyết phục có ý nghĩa rất quan trọng. Văn hóa đề cao tính dân chủ, nhân văn, tính khoa học, tính xác thực, tính thuyết phục, từ đó tạo ra sự đồng thuận, thống nhất, tự giác trong nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Công tác tuyên truyền cần đi trước một bước, chủ động nắm sát diễn biến tư tưởng, tâm trạng trong Đảng và trong nhân dân, nhất là đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ và đội ngũ những người làm công tác văn hóa, văn nghệ nói chung, từ đó định hướng tư tưởng đúng đắn và kịp thời trước những tác động cả tích cực và tiêu cực của đời sống tư tưởng - văn hóa trên thế giới cũng như trong nước; dự báo trước các vấn đề tư tưởng đã, đang và sẽ nảy sinh để có phương pháp lãnh đạo giải quyết kịp thời, hiệu quả.
Cần đổi mới nội dung, cách thức tuyên truyền, theo hướng phân nhóm đối tượng để có nội dung, hình thức, kênh tuyên truyền phù hợp. Cách thức tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ nhớ, dễ vận dụng, phù hợp với từng đối tượng, từng vùng, miền trong cả nước. Đối với mỗi vấn đề tuyên truyền, cổ động, cần có lộ trình, quy trình, mục đích, bước đi cụ thể, dưới các hình thức khác nhau để đạt được các yêu cầu cần thiết, súc tích, rõ ràng, minh bạch, không hình thức, không gượng ép, không áp đặt, từ đó đạt được tính hiệu quả. Cần kết hợp đa dạng, nhiều hình thức, nhiều kỹ năng, công nghệ và phương tiện hiện đại, phù hợp với từng nhóm đối tượng. Khi truyền đạt thông tin, nhất là với văn nghệ sĩ, cần chọn lọc kỹ những vấn đề quan yếu, thiết thực, tránh lối tuyên truyền áp đặt, phiến diện, một chiều, vừa thiếu tính thuyết phục, vừa gây phản cảm, phản tuyên truyền, tác dụng ngược.
Tăng cường đối thoại, tương tác, cùng lắng nghe, cùng thấu hiểu, tôn trọng ý kiến phản biện mang tính xây dựng. Thường xuyên nắm bắt chính xác dư luận xã hội để có những giải pháp định hướng đúng đắn, kịp thời, phát huy mặt tích cực, mặt đồng thuận, hạn chế những tác động tiêu cực, trái chiều. Tiến hành công tác tuyên truyền và cách thức tuyên truyền thông qua báo chí, xuất bản phẩm, tuyên truyền miệng, qua internet, các phương tiện truyền thông xã hội...; xây dựng những kênh thông tin có uy tín trên môi trường mạng vừa bảo đảm tính tin cậy của cơ quan đảng, nhà nước, các đoàn thể, vừa thân thiện, lôi cuốn các tầng lớp trong xã hội, nhất là cộng đồng mạng.
Cần tích cực, chủ động nắm bắt tư tưởng, tâm trạng, thái độ của đội ngũ cán bộ, nhân viên, văn nghệ sĩ trước những vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm của đất nước hay của chính lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Mọi diễn biến về tư tưởng, tâm trạng, thái độ, hành động của con người đều bắt nguồn từ quan hệ lợi ích và tâm lý xã hội, do vậy, phải “bắt mạch, kê đơn, bốc thuốc” đúng đắn, hợp lý cho từng nhóm người, từng “thể trạng”. Từ đó, hạn chế mặt bất đồng, tiêu cực, tăng tính đồng thuận, đồng tình, tích cực. Thường xuyên có sự bổ sung, điều chỉnh tiêu chí đánh giá khách quan tác động của việc thực hiện công tác tuyên truyền sau mỗi bước đi và so sánh với mục tiêu đặt ra. Có kế hoạch, lộ trình, các bước thực hiện và có điều tra dư luận xã hội đánh giá mức độ thành công cũng như phản ứng của dư luận đối với các vấn đề được tuyên truyền.
Xây dựng và thực hiện quy chế, quy định mọi tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở và mọi đảng viên đều có trách nhiệm trực tiếp làm công tác tư tưởng. Bí thư cấp ủy, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải lập kế hoạch cụ thể chỉ đạo công tác tư tưởng, chủ động nắm bắt, đánh giá, dự báo diễn biến tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, nhân viên trong cơ quan, đơn vị mình, có biện pháp giải quyết kịp thời. Khẩn trương xây dựng và đưa vào thực tiễn cơ chế cấp ủy tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với đội ngũ những người làm công tác văn hóa, văn nghệ, nhất là các trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ; cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến cơ sở với các cơ quan làm công tác tư tưởng trong việc triển khai kế hoạch phát triển văn hóa, văn nghệ.
Gắn kết chặt chẽ công tác tuyên truyền với nhiệm vụ phát triển các lĩnh vực của đời sống văn hóa, văn nghệ. Công tác tuyên truyền cần và phải có mặt trong các tiến trình, sự kiện, hiện tượng, phong trào để có tiếng nói kịp thời, mang tính định hướng và có sức thuyết phục, có tác động thực tế. Chẳng hạn, trong các hoạt động văn hóa tâm linh, cần khuyến khích các hoạt động mang ý nghĩa tích cực, có ích cho việc xây dựng và phát triển các giá trị văn hóa tinh thần, đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam; đồng thời, kiên quyết đấu tranh loại trừ mặt tiêu cực, mặt xấu, các hành vi lợi dụng các hoạt động văn hóa tâm linh vì các mục đích phản văn hóa khác, trái với ý nghĩa cao đẹp của văn hóa tâm linh của người Việt...
Giải quyết tốt, rõ ràng, đúng đắn các vấn đề nêu trên cũng góp phần đấu tranh phản bác, đẩy lùi các quan điểm sai trái, thù địch, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và chế độ.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo lĩnh vực văn hóa, văn nghệ thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong hệ thống chính trị và bằng công tác tổ chức, cán bộ
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác tổ chức bộ máy, cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ. Đảng giới thiệu cán bộ đủ tiêu chuẩn, đủ năng lực, uy tín để có thể ứng cử hoặc bổ nhiệm vào cơ quan làm công tác văn hóa, văn nghệ các cấp.
Tổ chức đảng và đảng viên công tác trong cơ quan văn hóa, văn nghệ phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, chỉ thị của Đảng; tổ chức đảng lãnh đạo việc cụ thể hóa thành các văn bản pháp luật của Nhà nước, chủ trương của đoàn thể; lãnh đạo thực hiện một cách sáng tạo, có hiệu quả.
Trong tình hình mới, việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị, trong đó có các cơ quan văn hóa, văn nghệ phải bám sát, cụ thể hóa, thể chế hóa các quan điểm của Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, Văn kiện Đại hội XII, XIII của Đảng, đồng bộ với Hiến pháp năm 2013; bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong thời kỳ mới.
Đổi mới, hoàn thiện đồng bộ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, đồng bộ với đổi mới thể chế văn hóa, văn nghệ phù hợp với đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực quan trọng và đặc biệt tinh tế này. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan văn hóa, văn nghệ phải gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ; xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu, nêu cao tính tự giác, trách nhiệm công dân, trách nhiệm của trí thức, văn nghệ sĩ.
Mục tiêu tổng quát là tăng cường xây dựng Đảng trong các cơ quan văn hóa, văn nghệ trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ở lĩnh vực được coi là nền tảng tinh thần xã hội, là sức mạnh nội sinh, động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Củng cố, đổi mới hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật ở Trung ương và các địa phương nhằm nâng cao khả năng tập hợp, động viên phát huy tiềm năng sáng tạo và phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ của hội.
Bài học rút ra trong nhiều năm qua cần nhận rõ để phát triển văn hóa, văn nghệ là chăm lo xây dựng tổ chức đảng và công tác cán bộ trong lĩnh vực này. Tổ chức đảng phải thực sự vững mạnh, trong sạch, giàu tính chiến đấu, tính khoa học, tính nhân văn. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, tham mưu về công tác văn hóa, văn nghệ, nhất là cấp chiến lược và ở cấp tỉnh phải được quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí đúng việc, đúng người, tránh tình trạng vừa bất cập về trình độ, năng lực, kiến thức, vừa thiếu tính hệ thống, tính dài hạn. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của đảng đoàn các hội, hiệu quả hoạt động của các tổ chức đảng trong các đơn vị hoạt động văn hóa, văn nghệ, quan tâm bồi dưỡng, kết nạp vào Đoàn, vào Đảng những văn nghệ sĩ trẻ tuổi.
Các cơ quan được Đảng, Nhà nước giao làm công tác chỉ đạo, quản lý văn hóa, văn nghệ (Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và ở địa phương là ban tuyên giáo tỉnh ủy, thành ủy, huyện ủy, thị ủy...) cũng cần xây dựng bộ máy và đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ, tránh tình trạng non về trình độ, năng lực, yếu về bản lĩnh, phương pháp, khi gặp phải những tình huống phức tạp, nhạy cảm thì lúng túng, bị động, sa vào hữu khuynh hay tả khuynh.
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược thuộc lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, đủ năng lực, phẩm chất, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Thứ tư, Đảng lãnh đạo lĩnh vực văn hóa, văn nghệ bằng công tác kiểm tra, giám sát
Để góp phần xây dựng Đảng mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng”(5).
Do đó, cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát và đổi mới phương pháp kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan văn hóa, văn nghệ. Các cấp ủy cần coi trọng công tác dự báo tình hình vi phạm, từ đó chủ động có biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa sớm và có hiệu quả. Cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng phải nắm vững quan điểm, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định về công tác xây dựng Đảng và công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Chú trọng học tập, quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, quan tâm đúng mức các nội dung về công tác kiểm tra của Đảng, góp phần tích cực phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra, cán bộ, đảng viên và sự giám sát của công chức, viên chức trong các cơ quan văn hóa, văn nghệ đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Ủy ban kiểm tra các cấp ở lĩnh vực văn hóa, văn nghệ cần chủ động thực hiện và tổ chức thực hiện có chất lượng, hiệu quả chương trình hành động, phương hướng, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ và hằng năm. Phải coi trọng khâu nắm tình hình, giám sát hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu trong các cơ quan văn hóa, văn nghệ để chủ động ngăn ngừa, phát hiện, kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm từ khi mới manh nha, chớm phát sinh vi phạm, không để vi phạm từ một người thành nhiều người, từ ít nghiêm trọng trở thành nghiêm trọng.
Tăng cường nắm bắt tình hình, coi trọng tuyên truyền, vận động, đối thoại, thuyết phục, mặt khác xử lý nghiêm minh tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan văn hóa, văn nghệ vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những hành vi dung túng, bao che cho khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên. Công khai các kết quả xử lý vi phạm trên các kênh thông tin phù hợp theo đúng quy định.
Xây dựng và hoàn thiện các quy định của Đảng để nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trong các cơ quan văn hóa, văn nghệ theo quy định của Đảng(6).
Khi xem xét, xử lý kỷ luật đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan văn hóa, văn nghệ, cần tránh hai khuynh hướng: hoặc buông lỏng, xuê xoa, hữu khuynh, nửa vời hoặc máy móc, áp đặt, thô bạo, tả khuynh.
Quan tâm công tác nghiên cứu, làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong hoạt động kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng ở cơ quan văn hóa, văn nghệ, đề xuất bổ sung, hoàn thiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng.
Thứ năm, Đảng lãnh đạo lĩnh vực văn hóa, văn nghệ bằng hành động nêu gương của cán bộ, đảng viên
Nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó coi trọng việc tiên phong gương mẫu, vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ chủ chốt các cấp. Trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, vai trò nêu gương của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, những nhà văn hóa có uy tín, ảnh hưởng lớn là đảng viên có ý nghĩa rất quan trọng.
Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong các cơ quan văn hóa, văn nghệ phải có tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi chuyên môn, cống hiến tài năng, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống; nghiêm khắc với chính mình, giữ vững nguyên tắc dân chủ, công tâm, khách quan, minh bạch trong công việc, nhất là trong việc sử dụng và đánh giá cán bộ. Không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng; trung thực, giản dị, thẳng thắn, chân thành, nhân văn, tiến bộ.
Nâng cao nhận thức về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, của trí thức, văn nghệ sĩ. Nhiều người trong số các nhà văn, nghệ sĩ là “người của công chúng”, nên sự nêu gương tốt về tư tưởng chính trị, đạo đức nghề nghiệp, lối sống... có ý nghĩa quan trọng, có sức lan tỏa, ảnh hưởng tích cực đến xã hội và ngược lại. Do đó, cán bộ, đảng viên, văn nghệ sĩ phải tự đặt mình trong kỷ luật của tổ chức, kiên quyết chống những biểu hiện vi phạm chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; cá tính sáng tạo, tự do nghệ thuật không được đi ngược lại lợi ích chung, trái với quy định của Đảng, Nhà nước; đi đầu trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, các luận điệu xuyên tạc, thù địch, thấy đúng phải cương quyết bảo vệ, thấy sai phải quyết liệt đấu tranh, không để các thế lực thù địch, phản động “tác động chuyển hóa”, các phần tử cơ hội chính trị lôi kéo.
Văn hóa, nghệ thuật có những đặc thù, nên ngoài những phương pháp lãnh đạo chung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật cũng cần có những cách thức lãnh đạo chuyên biệt, giữ vững nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, đồng thời thành tâm, tôn trọng, linh hoạt, cốt sao tập hợp, đoàn kết đông đảo lực lượng văn hóa, nghệ thuật quy tụ bên Đảng, tạo những điều kiện thuận lợi, môi trường tự do sáng tạo, khơi dậy những tiềm năng sáng tạo để cho ra đời ngày càng nhiều tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lớn, nuôi dưỡng và làm phong phú đời sống tinh thần xã hội, xứng tầm với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng ta./.
-------------------------
(1) Báo Cứu quốc, số 416, ngày 25-11-1946
(2), (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 143, 146
(4) Như: Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16-7-1998, của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 16-6-2008, của Bộ Chính trị, về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước”...
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 189
(6) Như: Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28-7-2021, “Về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng”; Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25-10-2021, “Về v2021, “Về thực hiện Quy định số 22-QĐ/TW, về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng”...
Nam Định đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới sau 60 năm thực hiện lời dạy của Bác  (25/05/2023)
Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, tín ngưỡng của cư dân Duyên hải miền Trung trong xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội  (19/04/2023)
Đổi mới phương thức lãnh đạo, bảo đảm vai trò lãnh đạo của tập thể gắn với phát huy đầy đủ vai trò của người đứng đầu trong các tổ chức đảng hiện nay  (12/04/2023)
Văn hóa là động lực quan trọng để phát triển kinh tế  (11/04/2023)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
- Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam