Giải pháp mở rộng khu kinh tế cửa khẩu tại tỉnh Quảng Ninh
TCCS - Tỉnh Quảng Ninh có 3 khu kinh tế cửa khẩu, gồm Hoành Mô - Đồng Văn (xã Hoành Mô); Bắc Phong Sinh (xã Quảng Đức) và Móng Cái (phường Móng Cái 1) đang được khai thác hiệu quả, phát huy được những tiềm năng, thế mạnh khu vực cửa khẩu. Đây là những điều kiện thuận lợi để tỉnh Quảng Ninh phát huy lợi thế về thu hút đầu tư, phát triển kinh tế nói chung, khu kinh tế cửa khẩu nói riêng.
1. Khu kinh tế cửa khẩu là một loại hình khu kinh tế, lấy giao lưu kinh tế biên giới qua cửa khẩu đất liền là nòng cốt, có ranh giới xác định, được thành lập bởi cấp có thẩm quyền với môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ an ninh biên giới. Kinh tế cửa khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy thương mại hàng hóa giữa các nước có chung đường biên giới, đóng góp lớn trong việc hình thành, phát triển kinh tế đối ngoại.
Nước ta có đường biên giới trên đất liền dài khoảng 5.044,806km, tiếp giáp với 3 nước Trung Quốc, Lào và Campuchia. Hệ thống cửa khẩu biên giới đất liền có vai trò quan trọng về kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, là cầu nối tăng cường hợp tác, củng cố tình hữu nghị với các nước láng giềng và là cửa ngõ giao thương, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Kể từ năm 1996, với chính sách thí điểm lần đầu tiên áp dụng tại cửa khẩu Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh), đến nay đã khẳng định việc phát triển loại hình khu kinh tế cửa khẩu là chủ trương đúng đắn và cần thiết nhằm tăng cường hoạt động thương mại xuyên biên giới, góp phần phát triển kinh tế theo phương châm “đa dạng hóa, đa phương hóa” quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại giữa nước ta với Trung Quốc, Lào, Campuchia. Trên cơ sở đó, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương có chung đường biên giới với các nước bạn.
Trải qua gần 30 năm hoạt động, các khu kinh tế cửa khẩu đã thu hút nhiều dự án đầu tư. Khu kinh tế cửa khẩu có sức thu hút đầu tư khá mạnh mẽ, không chỉ đối với các nhà đầu tư trong nước mà cả với các nhà đầu tư nước ngoài. Các khu kinh tế cũng khẳng định rõ vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh tại các tỉnh miền núi, biên giới. Có thể kể đến những đóng góp của các khu kinh tế cửa khẩu cho phát triển kinh tế - xã hội như sau:
Thứ nhất, góp phần thúc đẩy mở rộng thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa, tạo việc làm cho người dân vùng biên. Trao đổi thương mại thông qua các khu kinh tế cửa khẩu góp phần phát triển sản xuất trong nước. Bên cạnh đó, sự phát triển của thị trường do các khu kinh tế cửa khẩu cũng đem lại nhiều cơ hội việc làm cho người lao động không chỉ ở khu vực cửa khẩu mà còn ở các vùng lân cận. Đồng thời, khu kinh tế cửa khẩu thúc đẩy quá trình chuyển dịch nền kinh tế tự cung, tự cấp sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa, tạo ra sự phát triển ở các vùng để hình thành khu vực thị trường rộng lớn, có khả năng thu hút và thâm nhập với các khu vực thị trường khác.
Thứ hai, thúc đẩy phát triển công nghiệp, dịch vụ, du lịch và hoàn thiện kết cấu hạ tầng khu vực cửa khẩu, biên giới. Thực tế cho thấy, các khu kinh tế cửa khẩu cũng góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của các tỉnh miền núi, biên giới; tạo thêm nhiều ngành công nghiệp, dịch vụ, thu hút lao động nông nghiệp… Thông qua hoạt động của các khu kinh tế cửa khẩu, sản phẩm nông nghiệp Việt Nam đã thâm nhập thị phần của các nước bạn; người nông dân có cơ hội nắm bắt, mua sắm, sử dụng thiết bị, vật tư, giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng cao để phát triển nông nghiệp… Kinh tế cửa khẩu còn tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư, thông qua đó phát triển khoa học - công nghệ; đẩy mạnh hợp tác liên doanh, chuyển giao công nghệ với các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Thứ ba, sự hình thành và phát triển của các khu kinh tế cửa khẩu thúc đẩy phát triển ngành, nghề sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người dân, góp phần xóa đói, giảm nghèo, từng bước nâng cao đời sống của người dân. Ngoài ra, kinh tế cửa khẩu còn thúc đẩy hợp tác kinh tế - thương mại, xây dựng mối quan hệ hữu nghị bền vững với các nước bạn. Sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu còn tạo điều kiện hình thành các khu dân cư tập trung dọc biên giới, góp phần đẩy mạnh giao lưu kinh tế, văn hóa, quốc phòng - an ninh khu vực biên giới, thắt chặt tình hữu nghị giữa các quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
2. Tỉnh Quảng Ninh có 3 khu kinh tế cửa khẩu với tổng diện tích trên 144,75ha. Trong đó, khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái gắn với cửa khẩu Móng Cái có diện tích 121,197ha; khu kinh tế cửa khẩu Hoành Mô - Đồng Văn có tổng diện tích 14,236ha; khu kinh tế cửa khẩu Bắc Phong Sinh có tổng diện tích là 9,302ha.
Khu kinh tế cửa khẩu Bắc Phong Sinh được thành lập ngày 13-9-2002, theo Quyết định số 115/2002/QĐ-TTg, của Thủ tướng Chính phủ. Phạm vi lập quy hoạch theo ranh giới thành lập Khu kinh tế cửa khẩu Bắc Phong Sinh bao gồm toàn bộ địa giới hành chính xã Quảng Đức, tỉnh Quảng Ninh. Quy hoạch được lập với mục tiêu là phát triển khu kinh tế này theo mô hình khu kinh tế tổng hợp, đa ngành, đa lĩnh vực, với trọng tâm phát triển các ngành thương mại, dịch vụ, du lịch, công nghiệp chế biến. Khu kinh tế cửa khẩu Bắc Phong Sinh gắn kết chặt chẽ với Khu Công nghiệp - Cảng biển Hải Hà tạo thành đầu mối tập kết, trung chuyển và xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Khu kinh tế cửa khẩu này cũng sẽ cùng với Khu kinh tế cửa khẩu Hoành Mô - Đồng Văn, phụ trợ cho Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái để bảo đảm sự xuyên suốt và duy trì các hoạt động liên tục, thúc đẩy phát triển các khu kinh tế cửa khẩu.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, kinh tế cửa khẩu Bắc Phong Sinh, Quảng Ninh ghi nhận những tín hiệu tích cực. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa qua cửa khẩu này đạt hơn 46,3 triệu USD. Đặc biệt, tháng 7-2025, kim ngạch xuất khẩu chính ngạch đạt 2 triệu USD, tăng 26,38% so với tháng trước.
Vào cuối tháng 6-2024, tỉnh Quảng Ninh phối hợp với chính quyền Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc) đã chính thức mở cặp cửa khẩu song phương Hoành Mô (Việt Nam) - Động Trung (Trung Quốc) và lối thông quan Bắc Phong Sinh (Việt Nam) - Lý Hỏa (Trung Quốc).
Việc chính thức mở cặp cửa khẩu song phương Hoành Mô - Động Trung, bao gồm lối thông quan Bắc Phong Sinh (Việt Nam) - Lý Hỏa (Trung Quốc) đã tiếp tục mở ra cơ hội mới, tạo động lực thúc đẩy phát triển mạnh mẽ Khu kinh tế cửa khẩu Hoành Mô - Đồng Văn. Việc nâng cấp cửa khẩu Hoành Mô - Động Trung lên thành cửa khẩu song phương đã mở ra dư địa lớn để phát triển thương mại, dịch vụ logistics, xuất, nhập khẩu và kinh tế biên mậu. Đồng thời, hệ thống hạ tầng giao thông được đầu tư đồng bộ, liên kết giữa các xã, thôn bản và kết nối với các tuyến trục chính, tuyến đường biên, đường tuần tra, giao thông nông thôn… tạo thuận lợi cho lưu thông hàng hóa, phát triển du lịch và kết nối liên vùng.
Còn với Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái, khu kinh tế này được xác định là một trong 2 mũi đột phá và là trung tâm của vùng động lực trong mô hình tổ chức không gian phát triển “một tâm, hai tuyến, đa chiều, hai mũi đột phá, ba vùng động lực” của tỉnh Quảng Ninh. Trong 6 tháng đầu năm 2025, kinh tế cửa khẩu Móng Cái ghi nhận sự tăng trưởng tích cực, đặc biệt là hoạt động xuất, nhập khẩu. Số lượng doanh nghiệp làm thủ tục hải quan tăng 44% so với cùng kỳ năm 2024 cho thấy sự phục hồi và phát triển của hoạt động thương mại biên giới. Tỉnh Quảng Ninh, nơi có cửa khẩu Móng Cái, cũng đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, góp phần vào sự phát triển chung của khu vực.
Mặc dù các khu kinh tế cửa khẩu đã tạo ra nhiều lợi thế về kinh tế cho cả nước, nhưng việc lập quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết trong khu kinh tế cửa khẩu được cơ quan chức năng đánh giá là triển khai còn chậm và chất lượng chưa cao. Một số khu kinh tế cửa khẩu còn thiếu quy hoạch chung, dẫn đến các dự án đầu tư xây dựng được lập chỉ dựa vào quy hoạch chi tiết các khu chức năng nên có hiện tượng đầu tư dàn trải, thiếu sự đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội. Quy mô nguồn vốn còn nhỏ nên kết cấu hạ tầng tại các khu kinh tế cửa khẩu chưa được đầu tư đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển.
Các khu kinh tế cửa khẩu thường nằm tại các địa phương, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn nên chủ yếu vẫn dựa vào nguồn ngân sách Trung ương để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Tuy nhiên, nguồn ngân sách Trung ương lại khá hạn chế, trong khi nhu cầu đầu tư phát triển của các khu kinh tế cửa khẩu rất lớn, dẫn đến nhiều khu kinh tế cửa khẩu gặp khó khăn trong việc triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng một cách đồng bộ.
Đặc biệt, do vị trí địa lý, phần lớn các khu kinh tế cửa khẩu hiện nay đều gặp khó khăn trong thu hút doanh nghiệp đầu tư sản xuất, kinh doanh tại khu kinh tế cửa khẩu. Quá trình triển khai cơ chế, chính sách phát triển khu kinh tế cửa khẩu có một số vướng mắc, như chưa có chính sách ưu đãi đột phá đối với các khu kinh tế cửa khẩu và thiếu sự ổn định trong các cơ chế, chính sách tài chính liên quan. Hiện nay, các cơ chế, chính sách tài chính đối với khu kinh tế cửa khẩu được xây dựng theo quy định chung của pháp luật, nên chưa có các ưu đãi đặc thù.
3. Hoạt động xuất, nhập khẩu và các khu kinh tế cửa khẩu trên địa bàn đã góp phần rất quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, tăng trưởng kinh tế của tỉnh Quảng Ninh. Với 3 khu kinh tế cửa khẩu, trong đó Móng Cái là một trong các khu kinh tế cửa khẩu có quy mô lớn của cả nước, được xác định là khu vực động lực, trọng điểm quốc gia. Khu kinh tế Cửa khẩu Móng Cái đã tận dụng tốt lợi thế về vị trí, với nhiều phương thức kết nối với thị trường Trung Quốc thông qua hệ thống cửa khẩu, cầu bắc qua sông, bến cảng, thương mại biên giới... Đến nay, Khu kinh tế Cửa khẩu Móng Cái đã thu hút hơn 120 dự án, tổng vốn đầu tư gần 2 tỷ USD và gần 24.000 tỷ VND, thu ngân sách nhà nước đứng đầu của tỉnh Quảng Ninh.
Trong thời gian tới, các khu kinh tế cửa khẩu tại tỉnh Quảng Ninh cần được khai thác hợp lý, phát huy được những tiềm năng, thế mạnh của từng khu vực. Để đạt mục tiêu đó, cần bám sát các định hướng sau: thu hút đầu tư có chọn lọc, phát triển kết cấu hạ tầng và dịch vụ, tăng cường hợp tác công - tư và thúc đẩy phát triển đô thị. Đồng thời, các địa phương cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các ngành chức năng, chính quyền địa phương duy trì, mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, ngoại giao kinh tế với Trung Quốc. Song song với đó, đẩy mạnh đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng hỗ trợ tại các cửa khẩu, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giao lưu, phát triển kinh tế qua khu kinh tế cửa khẩu.
Trên tinh thần đó, tỉnh Quảng Ninh cần tập trung vào các nhóm giải pháp sau:
Về giải pháp chung:
Thứ nhất, hoàn thiện tổ chức bộ máy, nâng cao tinh thần trách nhiệm, trình độ nghiệp vụ cho cán bộ, công chức thực thi chính sách, đặc biệt là những cán bộ trực tiếp giải quyết công việc liên quan đến thủ tục đầu tư. Nâng cao khả năng dự báo để bảo đảm kế hoạch phát triển các khu kinh tế cửa khẩu được triển khai hiệu quả và sát với thực tiễn. Song song với đó, thực hiện hiệu quả chính sách thu hút đầu tư tạo môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch…
Thứ hai, đổi mới nội dung, cách thức quảng bá, giới thiệu tiềm năng của khu kinh tế cửa khẩu. Tập trung thu hút đầu tư vào các ngành, lĩnh vực dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, hình thành khu chức năng trong các khu kinh tế cửa khẩu... Bên cạnh các dự án có quy mô vừa và nhỏ, tập trung thu hút các dự án lớn tạo hiệu ứng đầu tàu và lan tỏa, có tác động ảnh hưởng tới phát triển kinh tế - xã hội của cả tỉnh. Đồng thời, phát huy tối đa các ưu đãi của Nhà nước đối với khu kinh tế cửa khẩu, đa dạng hóa các hình thức thu hút đầu tư nhằm khuyến khích các nguồn vốn cả trong và ngoài nước tham gia phát triển các khu kinh tế cửa khẩu.
Thứ ba, xây dựng, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng trong khu kinh tế cửa khẩu. Huy động tổng hợp các nguồn vốn để đầu tư kết cấu hạ tầng trong khu kinh tế cửa khẩu. Huy động tối đa nguồn lực của địa phương, kết hợp với sự hỗ trợ của Trung ương theo mục tiêu và thực hiện lồng ghép các chương trình, vốn đầu tư của các thành phần kinh tế. Sử dụng các khoản thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, đấu giá quyền sử dụng đất tại các khu kinh tế cửa khẩu để tạo nguồn vốn cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và giải phóng mặt bằng các khu kinh tế cửa khẩu theo quy định của pháp luật.
Về các giải pháp cụ thể:
Một là, thu hút đầu tư có chọn lọc. Xây dựng danh mục dự án ưu tiên, tập trung vào các ngành có tiềm năng như công nghệ cao, dịch vụ, du lịch và logistics. Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường và tạo ra nhiều việc làm.
Hai là, phát triển hạ tầng và dịch vụ. Đầu tư mạnh vào kết cấu hạ tầng giao thông (đường bộ, đường biển, đường hàng không), năng lượng, viễn thông và logistics. Nâng cấp các cửa khẩu hiện có, xây dựng các cửa khẩu mới và các trung tâm logistics hiện đại. Tăng cường dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp như tư vấn, tài chính và đào tạo.
Ba là, tăng cường hợp tác công - tư (PPP). Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tham gia việc đầu tư, xây dựng và vận hành các công trình hạ tầng, dịch vụ công cộng. Áp dụng các hình thức hợp tác công - tư hiệu quả để huy động vốn và kinh nghiệm từ khu vực tư nhân.
Bốn là, thúc đẩy phát triển đô thị. Xây dựng các khu đô thị hiện đại, đồng bộ với kết cấu hạ tầng và dịch vụ, tạo ra môi trường sống và làm việc hấp dẫn cho người dân và các chuyên gia. Phát triển các khu đô thị thông minh, sử dụng công nghệ để nâng cao hiệu quả quản lý và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế với các địa phương, khu kinh tế cửa khẩu của các nước láng giềng, đặc biệt là Trung Quốc. Chia sẻ kinh nghiệm, công nghệ và thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp nước ngoài. Xây dựng các chương trình hợp tác, liên kết phát triển kinh tế khu vực./.
Quy hoạch vùng chiến lược, phát huy lợi thế địa - kinh tế của tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới  (06/10/2025)
Quảng Ninh phát triển kinh tế biển bền vững gắn với bảo tồn đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường  (06/10/2025)
Quảng Ninh đẩy mạnh phát triển cảng biện và dịch vụ cảng biển  (04/10/2025)
Một số giải pháp thúc đẩy đô thị hóa bền vững tại tỉnh Quảng Ninh  (02/10/2025)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm